Quy mô của cuộc khủng hoảng
Rất
khó để phóng đại tính chất nghiêm trọng của những thách thức đang đặt
ra với Việt Nam trong giáo dục đại học - cao đẳng (ĐH - CĐ). Chúng tôi
tin rằng nếu không có một sự cải cách khẩn cấp và căn bản đối với hệ
thống giáo dục ĐH - CĐ, Việt Nam sẽ không đạt được đúng mức tiềm năng to
lớn của mình [1].
Sự
phát triển kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á đã cho thấy quan hệ mật thiết
giữa phát triển và giáo dục ĐH - CĐ. Cho dù trong các nước và vùng lãnh
thổ thịnh vượng nhất ở khu vực – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, và gần
đây là Trung Quốc - mỗi nơi đều đi theo những con đường phát triển độc
đáo, nhưng điểm chung trong thành công của họ là sự theo đuổi nhất quán
một nền khoa học và giáo dục ĐH – CĐ chất lượng cao.
Một
số nước tương đối kém thành công hơn ở Đông Nam Á – Thái Lan,
Philippines và Indonesia - lại là một câu chuyện mang tính cảnh báo.
Những nước này nói chung đã không đạt được chất lượng cao trong khoa học
và giáo dục ĐH – CĐ và họ đã thất bại trong việc phát triển những nền
kinh tế tiến bộ. Đó không phải là một điềm tốt cho tương lai nếu các
trường đại học Việt Nam tụt hậu xa so với chính những láng giềng Đông
Nam Á không mấy nổi bật của họ.
Việt
Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Không
có một cơ sở nào của Việt Nam có tên trong bất cứ danh sách được sử
dụng rộng rãi nào (nếu nhận định trên còn chưa rõ ràng) tập hợp các
trường đại học hàng đầu ở châu Á. Về phương diện này thì Việt Nam khác
xa với cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có thể
kiêu hãnh về ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. Các trường đại học Việt
Nam phần lớn bị cô lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế [2], như
những gì thể hiện qua số liệu nghèo nàn tại thống kê dưới đây:
Bài viết được xuất bản trên các tạp chí khoa học năm 2007
|
||
Cơ sở
|
Quốc gia
|
Số bài viết
|
Đại học tổng hợp Quốc gia Seoul
|
Hàn Quốc
|
5.060
|
Đại học tổng hợp Quốc gia Singapore
|
Singapore
|
3.598
|
Đại học tổng hợp Bắc Kinh
|
Trung Quốc
|
3.219
|
Đại học tổng hợp Phúc Đan
|
Trung Quốc
|
2.343
|
Đại học tổng hợp Mahidol
|
Thái Lan
|
950
|
Đại học tổng hợp Chulalongkorn
|
Thái Lan
|
822
|
Đại học tổng hợp Malaya
|
Malaysia
|
504
|
Đại học tổng hợp Philippines
|
Philippines
|
220
|
Đại học Quốc gia Việt Nam (Hà Nội và thành phố HCM)
|
Việt Nam
|
52
|
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
|
Việt Nam
|
44
|
Nguồn: Science Citation Index Expanded, Thomson Reuters
Các
trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có trình
độ như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều tra do
các hiệp hội thuộc Chính phủ thực hiện cho thấy khoảng 50% sinh viên tốt
nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, một
bằng chứng cho thấy sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng dạy và nhu
cầu của thị trường. Với hơn 25% chương trình học ở đại học là dành cho
các môn bắt buộc quá nặng về tuyên truyền chính trị, không phải băn
khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được trang bị rất kém cho cả việc
đi làm lẫn việc đi du học.
Có
thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở
thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một cuộc
kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt Nam, chỉ
có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và trong nhóm
này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu tuyển dụng.
Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước
mà họ đầu tư.
Các
nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế cũng cho rằng việc thiếu các công nhân
và quản lý có kỹ năng là cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng sản xuất.
Chất lượng nghèo nàn của giáo dục đại học còn có một ngụ ý khác: đối
lập với những người cùng thế hệ ở Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt Nam
thường không thể cạnh tranh được để lọt qua những khe cửa hẹp của các
chương trình đại học cao cấp ở Mỹ và châu Âu.
Chỉ số sáng tạo
|
|
Quốc gia
|
Số bằng sáng chế được cấp năm 2006
|
Hàn Quốc
|
102.633
|
Trung Quốc
|
26.292
|
Singapore
|
995
|
Thailand
|
158
|
Malaysia
|
147
|
Philippines
|
76
|
Việt Nam
|
0
|
Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review
Nguyên nhân khủng hoảng
Di sản lịch sử
Những
vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt trong giáo dục ĐH – CĐ hiện nay là một
phần hậu quả của lịch sử hiện đại của đất nước này. Chế độ thực dân Pháp
cai trị Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 19 đến tận năm 1945 đầu tư rất ít ỏi
vào giáo dục cấp ba, thậm chí là so với các cường quốc thực dân khác.
Hậu quả là, Việt Nam đã bỏ lỡ làn sóng cải cách thể chế trong giáo dục
ĐH – CĐ tràn qua phần lớn khu vực châu Á đầu thế kỷ 20. Trong giai đoạn
này, rất nhiều cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hàng đầu của khu vực đã được thành
lập. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một nền tảng thể
chế rất yếu để từ đó xây dựng lên. (Điều này trái ngược hẳn với Trung
Quốc, hầu hết các trường đại học đầu bảng của nước này hiện nay đều được
thành lập vững chắc từ trước cách mạng).
Quản lý
Nguyên
nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất bại ngiêm
trọng trong quản lý. Các trường đại học có chất lượng, từ Boston đến Bắc
Kinh, đều có những nhân tố chủ chốt nhất định mà Việt Nam hiện đang rất
thiếu [3].
Tự trị:
Các cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý tập trung
hoá cao độ. Chính quyền trung ương quyết định số lượng sinh viên các
trường được phép tuyển, và (trong trường hợp các trường đại học công
lập) lương trả cho các giảng viên đại học. Ngay cả những quyết định mang
tính thiết yếu đối với việc vận hành một trường đại học như việc lập
khoa cũng do hệ thống quản lý tập trung hoá này kiểm soát. Hệ thống này
hoàn toàn không khuyến khích các trường và học viện cạnh tranh hay đổi
mới. Thù lao được trả căn cứ vào thâm niên, và lương cứng thấp đến nỗi
các giảng viên đại học phải “đi đêm” rất nhiều để có thể đảm bảo cuộc
sống. Khác hẳn với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa thực sự khuyến khích
người Việt Nam học ở nước ngoài.
Các thí sinh trong kỳ thi đại học. Ảnh: VNN
|
Lựa chọn dựa trên thành tích:
Tham nhũng lan tràn và việc mua bán bằng cấp, học hàm, học vị là rất
phổ biến [4]. Các hệ thống nhân sự đại học đều mù mờ và việc bổ nhiệm
thường dựa trên những tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên, lý lịch
gia đình và chính trị, và các mối quan hệ cá nhân. Các khoa và các cấp
hành chính cao hơn có xu hướng do các cá nhân từng được đào tạo ở Liên
Xô hay Đông Âu nắm giữ, những người này không nói được tiếng Anh và,
trong không ít trường hợp không mặn mà với các đồng nghiệp trẻ được đào
tạo ở phương Tây.
Các mối liên hệ và tiêu chuẩn quốc tế:
Sản sinh kiến thức là việc của một doanh nghiệp không biên giới, nhưng
các cơ sở học thuật ở Việt Nam lại thiếu những mối liên hệ quốc tế có ý
nghĩa. Trên thực tế, các học giả trẻ được đào tạo ở nước ngoài thường
xuyên lấy lý do để tránh làm việc trong các cơ sở học thuật ở Việt Nam
là họ lo sợ không thể gắn bó với lĩnh vực của mình. Như GS. Hoàng Tụy
miêu tả, giới học thuật Việt Nam rất hướng nội và không đánh giá bản
thân theo các tiêu chuẩn quốc tế.
Trách nhiệm giải trình:
Các trường đại học Việt Nam không chịu trách nhiệm trước các cổ đông
bên ngoài, và đáng trách là trong đó có cả những người tuyển dụng. Trong
nội bộ hệ thống công lập, việc rót vốn không liên quan đến công việc
hay chất lượng theo bất cứ hình thức đáng kể nào. Tương tự, kinh phí
nghiên cứu của Chính phủ cũng không được cấp một cách có cạnh tranh mà
chủ yếu được coi là một hình thức bổ sung lương. Vì có quá nhiều người
thèm muốn những cánh cửa hẹp vào các trường đại học - chỉ 1/10 người
Việt Nam ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh vào các trường sau phổ
thông – nên các trường đại học Việt Nam không phải chịu áp lực đổi mới
nào. Họ có một thị trường bị giam cầm, vì du học chỉ là sự lựa chọn của
một thiểu số rất nhỏ.
Tự do học thuật:
Ngay cả khi so sánh với Trung Quốc, các trường đại học ở Việt Nam cũng
thiếu động lực tri thức ở một mức độ đáng kể. Ngay cả khi các trường đại
học đang dần được phép nới lỏng hơn, vẫn có một mạng lưới các kiểm soát
và kiềm chế chính thức và không chính thức để đảm bảo rằng các trường
đại học vẫn tiếp tục suy tàn về tri thức trong khi các cuộc tranh luận
trong xã hội ngày càng sôi nổi hơn.
Có một số ẩn ý trong luận điểm trên. Trước hết,
rào cản chính đối với việc cho ra những kết quả cải thiện hơn trong
giáo dục ĐH – CĐ lại không phải là chuyện tài chính. Trên thực tế, tính
theo tỉ lệ trong GDP, Việt Nam chi nhiều cho giáo dục hơn nhiều nước
khác trong khu vực. Con số này còn chưa tính đến số tiền lớn mà chính
các gia đình Việt Nam đầu tư vào giáo dục cho con cái họ, ở nhà và ở
nước ngoài. Nhưng tiêu tiền như thế nào lại là chuyện khác.
Thứ hai,
đầu tư vào du học vẫn chưa đủ để cải thiện hệ thống. Nếu môi trường
chuyên môn không được đại tu, sẽ không có nhiều người Việt Nam được đào
tạo ở nước ngoài muốn quay về làm công tác giảng dạy.
Phần 2: Đối phó
1. Để có sự phân tích hệ thống và so sánh về những thách
thức chính sách đối với Việt Nam,
xem “Choosing Success: The Development of East and Southeast Asia and Lessons
for Việt Nam”,
tại: http://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=98251.
2. Hệ thống đại học Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề từ hệ
thống học thuật của Liên Xô, trong đó các trường đại học về cơ bản là các cơ sở
giảng dạy, còn nghiên cứu là việc của các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực
đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tại các trường đại học nhưng chưa thành công,
nguyên nhân có nêu dưới đây. Theo Bảng 1, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng không
hoạt động tốt lắm.
3. Phân tích của chúng tôi về những thất bại trong quản lý
của Việt Nam
chịu ảnh hưởng từ những tìm hiểu của Task Force về giáo dục ĐH – CĐ, do WB và
UNESCO tập hợp, do GS. Henry Rosovsky của ĐH Harvard và GS. Mamphela Ramphele
của ĐH Cape Town
làm đồng chủ tịch. Trong báo cáo cuối cùng của mình, Peril and Promise: The
Challenges of Higher Education in Developing Countries, Task Force kết luận
rằng quản lý là rào cản cơ bản phổ biến đối với việc đạt được những kết quả
tốt. (Có tại http://www.tfhe.net). GS. Rosovsky là cố vấn của Viện Ash trong
các hoạt động liên quan đến cải cách thể chế ở Việt Nam.
4. Cần phải nhấn mạnh rằng một trong những thành tố của hệ
thống đại học giúp nó không bị tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu làm cho què
quặt là các kỳ thi tuyển sinh đại học. Chính phủ phải huy động rất nhiều nguồn lực
đáng kể để đảm bảo quá trình thi cử không có gian lận. Kết quả là, những sinh
viên được nhận vào học là những sinh viên tài năng và nhiều người có thể thành công
trong việc bổ sung cho các giáo trình cũ kỹ bằng cách tự học.
(Nguồn Tuần Việt Nam)