Thông tin thú vị về nhu cầu tuyển dụng các lập trình viên trong năm 2011

Nếu bạn sử dụng Google để tìm kiếm nâng cao một thông tin có dạng sau:
"Ngôn ngữ/Phần mềm" "lập trình viên"  "cần tuyển" OR "tuyển dụng"

NHỮNG BƯỚC BAN ĐẦU TẠO BLOG TRONG BLOGSPOT


Để tạo Blog trong BlogSpot, bắt buộc trước đó bạn phải Tạo một địa chỉ Email trong Gmail.

Bước 1: Vào website:  http://www.blogger.com/

Khởi tạo địa chỉ E-mail mới trong Gmail

Bước 1: Vào trang web http://www.gmail.com/

Ý kiến của GS Neal Koblitz về nền giáo dục Việt Nam

Giới thiệu tác giả: Năm 1985, GS Neal Koblitz (ĐH Washington) và TS Victor Miller (Cty IBM) đã đề xuất (độc lập với nhau) phương pháp mật hóa mã công khai dựa trên đường cong ellip. Ngày nay kỹ thuật Elliptic Curve Cryptography (ECC) đã tiến bộ rất xa trong cả nghiên cứu hàn lâm lẫn các hệ thống mật hóa thương mại. Neal Koblitz có khá nhiều công trình về Lý thuyết số và Mật mã học hiện đại. Ông là người bạn Mỹ lâu năm của giới khoa học nước ta và đã cùng vợ sáng lập Giải thưởng Kovalevskaia cho các nhà toán học nữ. (ĐT)

Nay, đứng trước một số bài viết về giáo dục ĐH Việt nam, ông lên tiếng nhận xét về những người nhận xét:

1.   Dẫn nhập

Đối với những vấn đề quốc tế quan trọng, quan điểm của người Mỹ thường bị chia rẽ một cách sâu sắc. Vào những năm sáu mươi, hàng triệu người Mỹ đã nhiệt tình ủng hộ cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trong số đó không chỉ là bao gồm những người không có học thức mà đáng tiếc là còn có cả một số giáo sư của Harvard và các trường đại học khác, họ đã đến Washington để nắm giữ các chức vụ quan trọng trong nội các của Kennedy và Johnson. Cũng trong thời kỳ này, nhiều người Mỹ khác đã phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam và đã tổ chức các cuộc biểu tình rộng lớn. Người Mỹ không nói chung một giọng.
Mục đích của báo cáo này là để trao đổi về một tài liệu với tiêu đề “Giáo dục bậc cao ở Việt Nam : Khủng hoảng và phản ứng.”[1] Bài viết này có tiêu đề của Viện Ash thuộc Trường Harvard Kennedy, và tên của Thomas Vallely và cộng sự của ông ta là Ben Wilkinson. Tôi sẽ trích dẫn tài liệu này một cách ngắn gọn là “báo cáo Vallely”.
Báo cáo Vallely được viết với quan điểm tương tự như một báo cáo trước đây về Giáo dục bậc cao ở Việt Nam dưới sự bảo trợ của Viện Hàn Lâm Hoa Kỳ.[2] Vào năm 2008 tôi đã có một bài bình luận về tài liệu đó.[3] Trong bài viết này, tôi sẽ không nhắc lại những điểm mà tôi đã nêu ra trong đó.
           Những khó khăn của Việt Nam trong giáo dục bậc cao là rất phức tạp và cũng khá giống với những vấn đề thường thấy ở các nước khác, đặc biệt là ở Thế Giới Thứ Ba. Bài viết này không nhằm phân tích toàn diện vấn đề đó. Mục đích của tôi là xem xét câu hỏi này trong bối cảnh lịch sử, và  cảnh báo các nhà toán học, các nhà khoa học và các quan chức của Việt Nam cần phải hết sức thận trọng trước những phân tích và kiến nghị của các đại diện của những tổ chức Hoa Kỳ kiểu như là Viện Ash.

2.   Lịch sử

2.1. Thời kỳ đầu   Sau chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của tôi vào năm 1978, tôi đã viết một bản báo cáo[4] trong đó tôi có bình luận về sự kính trọng đối với tri thức như là một phần trong văn hoá Việt Nam từ thời xa xưa.
           Có thể giải thích phần nào cho địa vị cao quí của những học giả trong truyền thống của người Việt. Trường Đại học Quốc tử giám cổ kính, được thành lập vào năm 1076, luôn là một địa điểm hấp dẫn khách du lịch tới Hà Nội... Tấm bia đá dựng năm 1463 có khắc tên của Lương Thế Vinh, người mà bên cạnh sự nghiệp văn chương của mình còn được coi là một trong những nhà hình học đầu tiên của Việt Nam.
Những truyền thống đó cũng có thể giải thích được phần nào vì sao trong số các sinh viên từ các nước đang phát triển theo học tại Mátxcơva thì sinh viên Việt Nam có lẽ là những người làm việc chăm chỉ nhất và thành công nhất. Có thể là các nhà toán học trẻ của Việt Nam từ Mátxcơva, khi quay trở về quê hương sau khi hoàn thành khoá học sau đại học cũng trải qua những cảm xúc hân hoan, vui sướng giống như cha ông mình sau khi thi đỗ trong các kỳ thi của hoàng gia.
           Tuy nhiên trong thời kỳ thực dân, người Pháp đã thất bại trong việc phát triển giáo dục bậc cao. Báo cáo Vallely đã có một phân tích chính xác về vấn đề này :                       Những vấn đề mà Việt Nam đang phải đối đầu trong hệ thống giáo dục đại học ngày nay một phần là do hậu quả từ một lịch sử cận đại bi thảm của đất nước này.
           Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam trong nửa sau thế kỷ 19 cho đến năm 1945 đã đầu tư rất ít, ngay cả khi so sánh với các thế lực thực dân khác, vào hệ thống giáo dục đại học. Hậu quả là Việt Nam đã bỏ lỡ mất cơ hội khi làn sóng cách tân thể chế giáo dục đại học quét qua phần lớn lục địa Châu Á trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Đây là thời gian rất nhiều học viện hàng đầu được thành lập tại vùng này.
           Hậu quả là sau khi thu hồi độc lập, Việt Nam chỉ có một thể chế giáo dục đại học rất yếu kém để làm nền móng xây dựng (Đây là một điểm tương phản rõ rệt so với Trung Quốc, nơi mà, cho đến ngày nay, phần lớn các trường Đại Học hàng đầu đã được thành lập rất lâu trước cách mạng).
           Mặc dù báo cáo Vallely đã có lý khi phê bình nặng nề người Pháp, nhưng mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cũng có những khía cạnh tích cực. Một số những trí thức hàng đầu của Việt Nam (như các nhà toán học Lê Văn Thiêm và Nguyễn Đình Ngọc) đã tu nghiệp ở Pháp và khi trở về đã có những đóng góp to lớn cho Việt Nam. Sau đó, đặc biệt trong thời gian chiến tranh với Mỹ, một số nhà toán học và khoa học nổi tiếng nhất của Pháp (như A. Grothendieck, L. Schwartz, và P. Cartier) đã đến thăm và giảng bài tại Việt Nam và đã cố gắng giúp đỡ các đồng nghiệp của họ. Người sáng lập ra Uỷ ban Hoa Kỳ về Hợp tác Khoa học với Việt Nam - Ed Cooperman (ông đã bị ám sát ở California đúng vào tháng này 25 năm trước), đã từng làm việc một năm ở Pháp trong những năm 1970 đã có những ấn tượng sâu sắc đối với các hoạt động của các nhà khoa học Pháp trong việc ủng hộ Việt Nam, và từ đó thôi thúc ông xây dựng một nhóm tương tự như vậy ở Hoa Kỳ.
           Tại thời điểm cam go nhất của cuộc chiến tranh với Pháp, các lớp học nâng cao vẫn được tổ chức, tại Liên khu Bốn do Nguyễn Thúc Hào phụ trách, tại khu vực phía tây Hà Nội do Nguyễn Xiển đảm nhiệm và ở gần biên giới với Trung Quốc do Lê Văn Thiêm phụ trách. Cũng trong cùng thời kỳ này, một cuốn sách giáo khoa về hình học do Hoàng Tụy biên soạn đã được xuất bản tại nhà xuất bản của Việt Minh. Tôi tin rằng đây là cuốn sách toán duy nhất trên thế giới do một phong trào kháng chiến phát hành. Các sự kiện lịch sử này đã được những nhiều nhà toán học biết đến thông qua cuộc phỏng vấn của tôi với Hoàng Tuỵ.[5]
2.2. Thời kỳ 1954-1985
Báo cáo Vallely mô tả khoảng thời gian kể từ sự ra đi của người Pháp đến trước thời kỳ đổi mới một cách tiêu cực như là “một kỷ nguyên chế độ xã hội chủ nghĩa độc đoán.” Nhưng chính trong giai đoạn này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trực tiếp gặp Grothendieck để thảo luận về sự phát triển toán học của Việt Nam trong tương lai, và một vài năm sau chính ông đã trực tiếp can thiệp mạnh mẽ để xây dựng một tòa nhà nghiêm chỉnh dành cho Viện Toán học Hà Nội. Đây thực sự là một việc làm “độc đoán” của ông, vì theo những gì mà tôi biết, chưa có một ông thủ tướng của một nước tư bản nào từng cương quyết xây dựng một toà nhà mới dành cho các nhà toán học! 
           Có thể các độc giả Việt Nam cảm thấy ngạc nhiên vì trong báo cáo Vallely, khi nói về “lịch sử cận đại đầy bi thảm” của Việt Nam, chỉ thấy người Pháp phải giơ đầu chịu báng về chính sách ngược đãi với Việt Nam. Các tác giả dường như đã quên đi toàn bộ giai đoạn từ năm 1954 đến 1975, khi nước Mỹ ban đầu ủng hộ cho các chế độ chuyên chế thối nát ở miền Nam, và sau đó từ năm 1964 đến năm 1975, đã chiếm giữ các tỉnh phía nam và tiến hành một cuộc chiến man rợ chống lại Việt Nam. Không một điều gì người Pháp đã làm có thể so sánh được với sự tàn phá trong giai đoạn này - khi mà tổng số lượng bom đổ xuống miền bắc và miền nam Việt Nam nhiều hơn hẳn bất kỳ một cuộc chiến tranh khác nào trong lịch sử thế giới, kể cả Chiến tranh thế giới II. Tham mưu trưởng không quân, tướng Curtis LeMay đã miêu tả chiến lược của Mỹ ở Việt Nam như sau: “Chúng ta sẽ ném bom và đưa họ trở về thời kỳ đồ đá.”
           Tuy nhiên, chỉ một chút tìm hiểu là ta sẽ thấy rõ ràng vì sao phần về “di sản lịch sử” trong báo cáo Vallely lại hoàn toàn không đề cập chút nào tới vai trò của người Mỹ. Tôi được biết qua trang web của viện Ash rằng trong suốt thời gian này chính ông Vallely đã ở Việt Nam với tư cách như là một thành viên của Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ. Đây là một trong những tổ chức đã gây ra các tội ác chiến tranh chống lại người Việt Nam.
           Hơn nữa, văn phòng của ông Vallely lại có liên kết với Trường Đại học Harvard, và điều này cũng có thể giải thích cho sự thiếu vắng những tư liệu liên quan đến vai trò của nước Mỹ trong “giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi kịch” của Việt Nam. Mặc dù Harvard đã có nhiều nhà toán học và khoa học lỗi lạc trong danh sách các giáo sư của mình, nhưng không phải mọi điều trong quá khứ của Harvard đều đáng khen ngợi. Trường đại học này đóng một vai trò to lớn trong chiến tranh của Mỹ. Một vài giáo sư về chính trị, như McGeorge Bundy và Samuel Huntington, là những nhà hoạch định chính sách quan trọng. Bundy và Huntington đã tham gia xây dựng và cổ vũ nhiệt thành cho chương trình “Ấp chiến lược” nổi tiếng ở miền nam Việt Nam. Chương trình cưỡng bức di dời phần lớn nông dân này do quân đội Mỹ và chế độ bù nhìn thực hiện đã bị lên án là vi phạm luật pháp quốc tế.[7] Chất Napalm - do Công ty Hoá học Dow sản xuất và được quân đội Mỹ sử dụng để chống lại dân thường ở Việt Nam – được thử nghiệm lần đầu tiên trên sân vận động của Harvard. Vì vậy người ta có thể dễ dàng hiểu được vì sao những người có liên quan tới trường Harvard lại thích giữ im lặng về cuộc chiến tranh của Mỹ và đổ mọi vấn đề của Việt Nam cho người Pháp.
Sự tàn phá của người Mỹ không phải chỉ ở khía cạnh vật chất mà còn cả về mặt văn hoá, đặc biệt là ở miền nam, nơi đã chịu đựng sự chiếm đóng của quân đội Mỹ trong suốt 11 năm. Tiền bạc của họ đã nuôi sống các tệ nạn như mại dâm, nghiện hút, và tham nhũng với qui mô khủng khiếp. Giống như vũ khí của Mỹ mang lại sự tàn bạo và chết chóc, tiền bạc của Mỹ đã ăn dần ăn mòn các cơ cấu văn hoá và xã hội Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 17.
           Có cả những ảnh hưởng về mặt văn hóa khác, tuy không hiện rõ bằng. Một ví dụ là nhiều năm trước đây, ông Hoàng Tuỵ đã nói với tôi một nhận xét rằng trong một cuộc chiến sinh tồn, truyền thống mỹ thuật và làng nghề thủ công cũng dần dần bị phai nhạt. Và nếu không có sự nỗ lực phi thường của các nhà trí thức và các nhà lãnh đạo Việt Nam - những người trong suốt thời gian Hà Nội bị ném bom vẫn tổ chức giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học ở trong các khu rừng cách xa Thủ đô - thì đời sống khoa học cũng sẽ bị xoá sổ trong thời gian chiến tranh với Mỹ.

3.   Đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa 

Hầu hết các nhà toán học và khoa học hàng đầu của Việt Nam ở thế hệ của Hoàng Tụy và thế hệ của tôi đều được đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa. Theo ấn tượng của tôi thì nhìn chung họ được đào tạo rất tốt. Tôi biết rằng các sinh viên Việt Nam ở Mátxcơva có tiếng là làm việc rất chăm chỉ và thông minh, và họ thường được làm việc dưới sự hướng dẫn của các nhà khoa học hàng đầu của Liên xô. 
Báo cáo Vallely gợi ý rằng các nhà khoa học và các quan chức của Việt Nam, những người đã được đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa, có năng lực kém hơn so với những người được đào tạo ở phương Tây, và cho rằng chính họ đã ngăn cản sự tiến bộ. Khi đưa ra những cáo buộc này, các tác giả dường như đang muốn tạo nên một cuộc xung đột giữa các nhóm khác nhau ở Việt Nam. Dù cho có các ý kiến khác nhau về khả năng của người Việt được đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa hay không xã hội chủ nghĩa - còn theo quan điểm của tôi thì ở cả hai nhóm này đều có những người có năng lực cao – thì việc tạo nên bất đồng giữa một nhóm người Việt Nam này với một nhóm khác cũng không đem lại lợi ích gì. 
           Nhìn vào những nhận xét mang tính miệt thị của báo cáo Vallely về những người Việt Nam được đào tạo bậc cao tại các nước xã hội chủ nghĩa, một câu hỏi tự nhiên được đặt ra là: Các tác giả của bản báo cáo này có những phẩm chất, trình độ nào để có thể cho phép họ đưa ra những phán xét tiêu cực như vậy?
Theo trang web của viện Ash thì trước khi trở thành giám đốc của chương trình Việt Nam, ông Vallely đã từng là thành viên của Hạ viện bang Massachusettes (tương tự như một quan chức cỡ nhỏ ở một tỉnh của Việt Nam). Ngoài ra, ông ta có bằng M.P.A, có nghĩa là "Thạc sĩ về Hành chính Công cộng." Đây là một bằng cấp thông thường ở Mỹ dành cho những người muốn làm việc tại các khu vực hành chính cấp địa phương hoặc ở tiểu bang. Nó không có ý nghĩa như trình độ Thạc sĩ về một lĩnh vực khoa học, và tất nhiên là còn kém xa một Tiến sĩ (Ph.D.) hay là bằng Candidate của Liên Xô.
           Trợ lý của Vallely, ông Ben Wilkinson, còn có ít bằng cấp hơn nữa. Theo trang web của viện Ash thì trình độ của ông ta là đã tham gia các khoá học về lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam hồi ông ta là sinh viên, và ông ta đã "học luật tại Trường Luật Harvard" (cách viết này có nghĩa là ông ta đã không hoàn thành khoá học và có bằng cấp gì về luật).
           Nếu một người nào đó có một tấm bằng Thạc sĩ Hành chính Công cộng, hoặc đã từng theo các khoá học đại học về lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam thì liệu anh ta có đủ trình độ để chỉ bảo cho chính phủ Việt Nam nên làm gì hay không? Liệu anh ta có đủ tư cách để đưa ra các phán xét tiêu cực về các nhà khoa học và các quan chức đã từng theo học ở các nước xã hội chủ nghĩa hay không?
           Liệu một người với trình độ như ông Vallely hoặc ông Wilkinson có thể được chính phủ Hoa Kỳ mời làm chuyên gia tư vấn về cải cách giáo dục bậc cao hay không? Tất nhiên là không. Người ta sẽ coi họ là hoàn toàn không đủ trình độ, và sẽ không có ai muốn nghe ý kiến của họ về vấn đề này. Thế mà Viện Ash của Trường Havard và chương trình học giả Fulbright của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lại cử họ đến Việt Nam như là các "chuyên gia" về đào tạo bậc cao. Đây là một ví dụ của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
           Giọng điệu của bản báo cáo Vallely mang tính chất trịnh thượng, ra vẻ quan trọng và dạy bảo. Các tác giả đã tự tin thái quá một cách sai lầm vào kiến thức cao cả của mình và tỏ ra chế nhạo, coi thường các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học cũng như các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Dù cho Mc George Bundy và Samuel Huntington đã chết thì thói kiêu căng kiểu thực dân mới mà họ đã từng thể hiện vẫn tồn tại và hiện hữu ở các tổ chức có liên quan tới Harvard như cái viện Ash này.

4.   Tuyên truyền chính trị

Số đông các sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, đến Mỹ để tham gia vào các chương trình Ph.D. trong các ngành khoa học tại các trường đại học nghiên cứu lớn. Không nên nhầm lẫn những chương trình này với một loại hình đào tạo khác thường được các tổ chức kiểu như Viện Ash thực hiện. Các chương trình của các tổ chức đó thường được tiến hành trong khoảng thời gian từ vài tháng cho tới hai năm, không phải tập trung vào một chủ đề khoa học nào, mà là “khoa học chính trị” hay “chính sách công cộng.” (từ “khoa học” trong các cụm từ như “khoa học chính trị” hay “khoa học xã hội” tất nhiên chẳng có nghĩa là chúng là các ngành khoa học.) Các sinh viên hay tu nghiệp sinh[9] (như thỉnh thoảng họ vẫn được gọi) học về những chủ thuyết chính trị và các học thuyết kinh tế nổi bật ở Mỹ, và họ được dạy rằng cách tiếp cận của người Mỹ trong việc giải quyết các vấn đề là tốt nhất và chúng nên được du nhập vào các quốc gia khác.
           Báo cáo Vallely cho rằng ở Việt Nam “25% chương trình giảng dạy đại học được dành cho các môn học mang nặng tính tuyên truyền chính trị.” Tuy nhiên, khi nhìn vào các chương trình về chính sách tại Viện Ash ở Harvard của ông Vallely, người ta dễ có cảm giác rằng việc truyền bá chính trị chiếm tới 100%. (Có lẽ 100% thì hơi quá, nhưng chắc chắn rằng tỷ lệ các môn tuyên truyền về chính trị và tư tưởng vượt xa con số 25%.) Sự khác biệt giữa hai dạng tuyên truyền chính trị tại các trường đại học ở Việt Nam và tại viện Ash là ở chỗ một nơi tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội còn nơi kia là chống chủ nghĩa xã hội. Ngay cả khi nhận định trong báo cáo Vallely rằng sinh viên đại học ở Việt Nam đã lãng phí 25% thời gian của mình là đúng, thì nó vẫn còn tốt hơn là lãng phí hầu như 100% thời gian.

5.   Đổi mới

Vào năm 1985 Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt  chính sách cải tổ nền kinh tế và điều đó dẫn tới việc nền kinh tế đã phát triển nhanh chóng trong nhiều năm, chất lượng cuộc sống của mọi người được nâng cao, và khu vực tư nhân phát triển rất mạnh. Trong cuốn sách Random Curves[10] của mình, tôi đã cố gắng đưa ra một cách nhìn cân bằng về ảnh hưởng của đổi mới.
…Những thay đổi này có ảnh hưởng cả tốt lẫn xấu. Hầu hết người Việt Nam có một cuộc sống vật chất tốt hơn … Mặt khác, sự mất cân đối về kinh tế trở nên rõ rệt hơn trước, và tầng lớp người “vô-sản” đã xuất hiện. Hơn nữa, trong nhiều mặt thì ở Việt Nam khu vực kinh tế tư nhân thậm chí còn  chịu thuế và những ràng buộc ít hơn so với ở Mỹ và các nước tư bản khác.
Trong một lần thảo luận vấn đề này với Bà Nguyễn Thị Bình – khi đó là Phó Chủ tịch nước-  tôi có nhận xét rằng trong vấn đề này thì Việt Nam còn kém xã hội chủ nghĩa hơn nước Mỹ. Trong cuốn sách của mình, tôi đã đưa ra một ví dụ để minh họa cho những cách hành xử tồi tệ của các công ty tư nhân ở Việt Nam, điều không bao giờ được chấp nhận ở hầu hết các nước tư bản tiên tiến:
Ví dụ, vào năm 2003 chúng tôi để ý thấy có một tờ quảng cáo tuyển nhân viên của khách sạn Caravelle, đăng trên tờ báo tiếng Anh Vietnam News. Mẩu quảng cáo này tuyển nhân viên nam giới cho các công việc kỹ thuật và tuyển nhân viên nữ cho các công việc phục vụ phòng. Những quảng cáo có tính chất phân biệt nam nữ như vậy là không hợp pháp ở Mỹ và ở hầu hết các nước Châu Âu.
           Hơn nữa, đã có nhiều trường hợp những ông chủ là người Mỹ, người Hàn Quốc hay Nhật Bản quấy rối tình dục công nhân nữ Việt Nam, những người phụ nữ này hoàn toàn bất lực và người ta cũng chẳng có hành động gì để xử phạt những kẻ quấy rối tình dục đó.
           Cũng giống như ở các nước khác, chính sách mở cửa có mặt trái của nó. Những người đã từng nghiên cứu về các mối quan hệ phức tạp giữa các nước giầu có và các nước Thế giới Thứ Ba thường hay nói về vấn đề “dumping”[11]. Điều này có nghĩa là nhiều công ty đa quốc gia thường xuyên bán các sản phẩm chất lượng thấp hoặc có lỗi cho các nước Thế giới Thứ Ba - ví dụ, các loại thuốc quá hạn sử dụng hoặc không được kiểm nghiệm và vì vậy không thể bán được ở Mỹ. Nạn dumping cũng được mở rộng tới cả lĩnh vực văn hóa. Ví dụ như, các phim Mỹ thường được chiếu ở Việt Nam (và làm cản trở nền công nghiệp điện ảnh Việt Nam) thường là những bộ phim kém chất lượng nhất của Hollywood - những bộ phim Mỹ có chất lượng tốt hiếm khi được nhập về.
           Tương tự như vậy, hầu hết các trường của Mỹ đặt chi nhánh ở Việt Nam đều là những trường có chất lượng thấp. Ví dụ, một bài báo[12] mà tôi đọc được trên một tờ báo của Mỹ nói tới việc Trường cao đẳng Cộng đồng Houston[13] có một chi nhánh rất phát đạt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Không một người nào ở Mỹ coi Trường Cao đẳng Cộng đồng Houston là một trường có địa vị học thuật nghiêm túc. Vì vậy, điều này cũng có thể được xem là một hình thức dumping. Và cũng có thể nói rằng việc gửi những người không có khả năng sang Việt Nam làm "chuyên gia" về giáo dục bậc cao cũng là một dạng dumping.
           Một mặt trái khác của chính sách mở cửa là sự gia tăng của chủ nghĩa thực dụng trong thế hệ trẻ - một hiện tượng cũng thấy ở Trung Quốc, Ấn Độ và một vài nơi khác. Tôi đã viết trong cuốn Random Curves, Những người làm khoa học ở Việt Nam thường than phiền rằng ngày càng ít các bạn trẻ muốn theo đuổi các lĩnh vực khoa học cơ bản. Đã có hiện tượng "bạc tóc" ở các cơ quan khoa học ... Người Việt Nam có truyền thống coi trọng việc học hành... Nhưng với sự tác động mạnh mẽ của các hệ thống giá trị được du nhập từ các nước tư bản, những công việc lao động trí óc không cạnh tranh nổi với các ngành nghề khác có lợi hơn.
Thậm chí cả các bạn trẻ đã rất thành công trong các cuộc thi Ôlimpíc Toán học Thế giới cũng thường không chọn nghề làm toán hoặc các lĩnh vực hoạt động sáng tạo khác của khoa học và công nghệ.
           Mặc dù việc đấu tranh chống lại những ảnh hưởng tiêu cực tới giới trẻ là khó khăn, nhưng cũng không phải là hoàn toàn bó tay. Đã có nhiều nỗ lực thành công ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Ấn Độ, một số nhà toán học hàng đầu đã tham gia giảng dạy trong các chương trình mùa hè về toán học được chính phủ tài trợ dành cho các học sinh cả nam và nữ đã đạt được kết quả tốt trong các kỳ thi Ôlimpíc. Mục đích của các chương trình này không phải chỉ để dạy toán, mà còn nhằm chuyển tải vẻ đẹp và sự hấp dẫn của việc nghiên cứu toán học. Ở Mỹ, Hiệp hội các nhà Toán học Nữ tổ chức "ngày Kovalevskaia" tại các trường cấp hai ở nhiều nơi trên nước Mỹ. Tại những buổi gặp gỡ này, các nhà nghiên cứu nữ nói chuyện với các em gái về rất nhiều công việc có sử dụng đến toán học. Một sáng kiến khác tỏ ra rất thành công là một chương trình được chính phủ tài trợ mang tên "Kinh nghiệm nghiên cứu ở bậc đại học"[14] (REU), được tổ chức vào mùa hè tại nhiều trường đại học, trong đó có trường của tôi. Các giáo sư phụ trách REU cố gắng đem lại cho các sinh viên những cảm giác ban đầu của công việc nghiên cứu toán học.

6.   Giáo dục bậc cao ở Mỹ

6.1. Sự xuống cấp về kiến thức cơ bản của sinh viên  
So với hầu hết các trường ở Mỹ, trường của tôi thu hút được nhiều sinh viên khá. Đại học Washington (U.W.) là trường đại học hàng đầu ở vùng tây bắc, và hầu hết sinh viên học toán và khoa học tại U.W. đều nằm trong nhóm 20% dẫn đầu ở  trung học. Vì sự “lạm phát điểm số”[15] và sự “ngu hoá”[16] , nhiều người trong số họ thường quen với việc có điểm số cao mà lại chỉ tốn rất ít công sức.
           Trong thời gian từ 20 hoặc 25 năm trở lại đây, mức độ chuẩn bị của sinh viên khi nhập trường dần dần đi xuống. Lần đầu tiên tôi nhận ra điều này là khi một sinh viên khi học môn học giải tích dành cho năm thứ nhất của tôi đã than phiền với bộ phận hành chính về tôi. Cô ta nói rằng tôi dạy quá khó, và để chứng minh, cô ta chỉ ra rằng để trả lời cho một câu hỏi trong một bài kiểm tra của tôi, các sinh viên phải nhớ được công thức tính diện tích hình tròn.
           Một vài năm trước, một đồng nghiệp của tôi, Giáo sư chuyên ngành khí tượng học Cliff Mass đã hết sức thất vọng khi thấy sinh viên của mình không thể hiểu được những kiến thức toán học mà ông ta sử dụng trong môn học nhập môn của mình. Để tìm hiểu những lỗ hổng trong kiến thức chuẩn bị về toán của họ, ông đã cho họ một bài "kiểm tra chất lượng" về toán cơ bản. Sau đây là ba câu hỏi điển hình trong bài kiểm tra này cùng với tỷ lệ sinh viên trả lời sai:
(1)           Chia 25×108 cho 5×10-5. (63% đã bỏ câu này.)
(2)           Diện tích của hình tròn bán kính r là bao nhiêu? (31% bỏ câu này.)
(3)           Cho y= x/(1-x), hãy tìm x theo biến y. (86% bỏ câu này.)
Để có thể so sánh, sẽ rất lý thú nếu như biết được có bao nhiêu phần trăm sinh viên Việt Nam sẽ không thể trả lời được các câu hỏi trên?
6.2. Chi phí cao và tệ quan liêu
Chi phí cho giáo dục bậc cao ở Mỹ còn tăng nhanh hơn cả lạm phát và nhanh hơn cả mức thu nhập gia đình. Tại nhiều trường đại học tư hiện nay,  tính trung bình mỗi năm sinh viên phải chi trả cho các khoản: học phí, lệ phí, tiền thuê nhà, tiền ăn là vào khoảng 50.000 USD. (Tại các trường công lập thì chi phí vào khoảng một nửa số đó.) Đã có nhiều tranh luận về vấn đề này trên báo chí Mỹ.
           Một lý do của chi phí cao là các trường đại học đó cung cấp cho sinh viên nhiều dịch vụ hơn trước đây. Ví dụ, so với các sinh viên ở các thế hệ trước, sinh viên thời nay dường như cần sự giúp đỡ về sức khoẻ và tâm lý nhiều hơn. Nhiều người trong số họ lam dụng các loại thuốc gây nghiện, các hoá chất chống dị ứng, thuốc tránh thai, và đặc biệt là các dược phẩm điều trị tâm lý như các loại thuốc giảm đau và thuốc giảm cường độ hoạt động[17] - và những cuộc rượu chè say sưa (một dạng của chứng nghiện rượu) cũng là một vấn đề lớn.
           Một lý do khác nữa là sự nở rộ như bệnh ung thư của hệ thống quan liêu, điều mà tôi cũng đã đề cập trong bài bình luận của tôi về bản báo cáo của Viện Hàn Lâm Quốc gia Hoa Kỳ. Đội ngũ cán bộ hành chính trong các trường đại học thường đông đảo như một khoa, và có nhiều toà nhà chỉ dành cho các phòng hành chính. Các cán bộ hành chính này mất quá nhiều thời gian cho các cuộc họp vô bổ và các hội nghị đắt đỏ không cần thiết, và họ xuất bản ra một khối lượng khổng lồ những ấn phẩm không có giá trị mà hầu như chẳng ai thèm đọc.
           Do những yếu tố tổng hợp liên quan đến vấn đề cá nhân, áp lực về tài chính, và sự chuẩn bị nghèo nàn về toán học và các lĩnh vực khác, hầu như một nửa số sinh viên vào các trường có chương trình đào tạo là 4 năm đã không thể hoàn thành khoá học của mình trong vòng 4 năm, 5 năm và thậm chí là 6 năm.[18] Điều này khiến cho nhiều nhà bình luận của Mỹ nói rằng giáo dục bậc cao ở Mỹ là rất không hiệu quả và quá đắt đỏ.
6.3. Làm thế nào mà nước Mỹ vẫn tạo ra được những sản phẩm khoa học tốt ?
Khi các nhà khoa học và toán học đến thăm và giảng dạy tại Mỹ trong vòng một năm, họ thường bị sốc vì trình độ rất thấp của sinh viên ở đây. Họ thường tự hỏi vì sao mà một nước có nền giáo dục yếu kém như thế này lại có thể vẫn duy trì một nền khoa học hàng đầu thế giới? Nước Mỹ  luôn nắm giữ những kỹ thuật hiện đại nhất trong hầu hết các ngành kỹ thuật cao, vẫn có những chương trình sau đại học về các ngành khoa học tốt nhất thế giới, và vẫn đạt được rất nhiều giải Nobel. Thoạt nhìn, điều này đúng là một nghịch lý.
Có hai lý do giải thích vì sao nước Mỹ vẫn sản sinh ra các nhà khoa học hàng đầu thế giới: 
·     Nước Mỹ là một quốc gia rộng lớn và giàu có, với một hệ thống giáo dục hoàn toàn phi tập trung. Sự đa dạng về chất lượng là rất lớn. Có một thiểu số các trường công lập và trường tư có chất lượng rất cao. Giả sử rằng 98% người Mỹ được hưởng một nền giáo dục không đầy đủ trong các ngành khoa học, thì vẫn còn 2% nhận được một nền giáo dục tầm cỡ thế giới. Con số 2% đó cũng đủ để cung cấp cho đất nước hàng trăm nghìn kỹ sư và các nhà khoa học.
·     Nước Mỹ hưởng lợi rất nhiều từ phong trào nhập cư. Sự "bòn rút chất xám"[19] từ các quốc gia khác cung cấp đều đặn cho nước Mỹ một số lượng phong phú các nhà khoa học và kỹ sư. Trong nhiều ngành khoa học, hơn một nửa các luận án Tiến sĩ chất lượng hàng đầu được viết bởi các sinh viên sau đại học đã từng học tập tại các trường bậc thấp hơn ở các quốc gia khác.
Đối với các quốc gia khác, có thể rút ra nhiều bài học từ thành công và thất bại của giáo dục khoa học ở Mỹ. Tuy nhiên, không một người có tri thức nào lại có thể khẳng định rằng nhìn chung hệ thống đào tạo trung học và đại học của Mỹ là một mô hình tốt và đáng để các quốc gia khác noi theo.

7.   Về ý tưởng một trường đại học mới do người Mỹ dựng lên

Báo cáo Vallely có kèm theo một phụ lục bài viết của Giáo sư Hoàng Tụy, trong đó ông ủng hộ ý tưởng xây dựng một trường đại học mới, do nhà nước tài trợ, dựa trên mô hình của Mỹ, và do người Mỹ thiết kế.
Tôi đặc biệt ngưỡng mộ và kính trọng Hoàng Tụy (và đã viết về điều này trong Random Curves), nhưng tôi không phải là đồng ý với ông về mọi điểm. Chẳng hạn như khi tôi phỏng vấn ông khoảng 20 năm trước cho tờ The Mathematical Intelligencer, ông và một vài nhà toán học có tiếng khác có vẻ rất thích thú với một trường đại học mới là đại học Thăng Long, và cho rằng những đại học tư như thế sẽ trở thành kiểu mẫu cho giáo dục bậc cao ở Việt Nam. Tôi không bao giờ tin điều này sẽ xảy ra. Tôi biết nhiều trường đại học tư ở các nước thế giới thứ ba khác, và tôi không tin rằng việc “tư nhân hóa” như thế sẽ là một lời giải cho những khó khăn của Việt Nam (và các nước khác) trong giáo dục bậc cao. Bây giờ thì rõ ràng là tôi đã đúng về điểm này. Các “đại học” tư, kể cả Thăng Long, không thực sự là các đại học mà chỉ là các trường dạy nghề với một vài hình thức giáo dục trên bậc phổ thông.[20]
Cũng tương tự như thế, tôi cho rằng Hoàng Tụy và nhiều người khác đã sai lầm khi cho rằng một trường đại học được xây dựng hoàn toàn mới theo thiết kế của một nhóm các trường đại học của Mỹ sẽ là một mô hình thành công trong giáo dục bậc cao ở Việt Nam. Có nước nào trên thế giới mà điều này đã xảy ra không? Có một vài nước, chủ yếu là ở vùng Trung Đông,[21] là có các trường đại học do người Mỹ xây dựng, nhưng theo tôi được biết thì những trường này chỉ đào tạo các con em tầng lớp thượng lưu và không có nhiều ảnh hưởng đến việc nâng cáo chất lượng giáo dục ở các quốc gia đó.
Một điểm quan trọng trong bản kiến nghị về một trường đại học mới kiểu Mỹ ở Việt Nam là nó sẽ không lấy kinh phí từ nguồn của Mỹ. Như thế, nó sẽ là một khoản chi rất lớn đối với chính phủ Việt Nam. Như trong bản báo cáo Vallely đã viết: “Nói một cách thẳng thừng là Việt Nam phải chấp nhận chi tiền.” Và mỗi đồng đô la mà Việt Nam trả cho một hiệp hội của Mỹ có nghĩa là nhà nước sẽ có ít tiền hơn để cải tổ các trường đại học hiện có.
Nhìn sang các nước khác để học tập các ý tưởng để cải cách là một việc làm hoàn toàn xác đáng. Có một số điều ở nước Mỹ được thực hiện tốt - như tôi đã từng đề cập đến trong những lần sang thăm Việt Nam. Ví dụ, ở Mỹ thì việc giảng dạy và nghiên cứu được gắn kết với nhau tốt hơn so với đa số các nước khác. (Tôi đã trình bày về điều này từ năm 1983 trong một bản báo cáo mà tôi đã viết cho các nhà lãnh đạo Việt Nam về giáo dục và khoa học.) Nhưng Việt Nam không nên tôn sùng nước Mỹ (hay bất cứ quốc gia nào khác). Cần phải hiểu rằng có rất nhiều thất bại trong hệ thống Mỹ. Và một số nước khác, như Ấn Độ, Trung Quốc, và Nhật Bản - lại là những nguồn ý tưởng và cảm hứng hay hơn nhiều trong một số khía cạnh của giáo dục.

8.   Thị trường việc làm

Bản báo cáo Vallely khẳng định rằng “có đến khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp không thể tìm được việc làm trong lĩnh vực chuyên môn của mình,” và dùng điều này như là một bằng chứng về sự kém hiệu quả của chương trình đào tạo ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là kết luận đứng đắn rút ra được từ con số thống kê này. Ở Việt Nam, cũng như ở nhiều nước Thế giới Thứ Ba khác, vấn đề là ở chỗ khu vực tư nhân không đạt được đến mức độ có khả năng thu nhận một số lượng lớn các nhà khoa học và kỹ sư tài năng (và ở khu vực nhà nước thì điều này lại bị giới hạn bởi những lý do về tài chính).
Từ nhiều năm nay tôi thường xuyên đến Peru, một quốc gia cũng không có khả năng cung cấp công ăn việc làm cho các sinh viên tốt nghiệp đúng với chuyên môn của họ. Một khách du lịch ở Peru rất có thể sẽ gặp một người lái taxi hay một hướng dẫn viên du lịch rất có học! Khách du lịch tất nhiên sẽ thích điều này, nhưng đây lại là một bi kịch đối với quốc gia đó. Lý do vì sao rất nhiều người Peru có bằng cấp cao nhưng lại làm các công việc thậm chí không cần đến trình độ đại học không phải là do các trường đại học của Peru quá kém cỏi trong công tác đào tào họ, mà là vì nền kinh tế chưa đủ sức để có thể thu nhận họ. Peru, giống như Việt Nam, chưa có một khu vực tư nhân sống động. Và ở Peru, cũng như ở nhiều quốc gia khác, chính phủ đang phải chịu một sức ép rất lớn phải giảm bớt khu vực nhà nước, nơi phần lớn những người làm việc trong các ngành khoa học ăn lương (sự cắt giảm trong khu vực nhà nước thường là một trong những điều kiện mà Ngân Hàng Thế Giới hay Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế yêu cầu).
Ngay cả khi một quốc gia có một khu vực kinh tế tư nhân giàu sáng tạo với rất nhiều việc làm dành cho các nhà khoa học và kỹ sư, cũng cần phải có những cố gắng đặc biệt để đảm bảo cho các sinh viên tốt nghiệp đại học có một bước chuyển tiếp trơn tru ra thị trường nhân lực. Một trường đại học đã có rất nhiều thành công trong việc này là đại học Waterloo (thường được gọi là “MIT của Canada”), nơi mà khái niệm “thực tập sinh”[22] được đưa ra lần đầu tiên từ gần nửa thế kỷ trước. Các sinh viên Waterloo mất 5 năm chứ không phải 4 năm đại học để tốt nghiệp vì họ dành một phần không nhỏ thời gian trong các năm đó để làm các công việc tạm thời, thường là các khu vực Nghiên cứu và Phát triển (R&D) tại các công ty công nghệ cao. Tất nhiên là một chương trình thực tập như vậy chỉ có thể thực hiện được vì khu vực Toronto, nơi đại học Waterloo đặt địa điểm, có rất nhiều công ty như vậy.
8.1. Tính chất của khu vực tư nhân
Bản báo cáo Vallely sử dụng khái niệm “chỉ số sáng tạo” để chỉ bảng các bằng sáng chế được cấp năm 2006, và nó sử dụng việc thiếu vắng các bằng sáng chế được cấp cho Việt Nam như là một bằng chứng cho “chất lượng kém cỏi” của giáo dục bậc cao. Điều này là một sự nhầm lẫn tai hại..
           Mục đính của bằng sáng chế là   bảo vệ sự sáng tạo trong phu vực tư nhân, nói rõ hơn, là để đảm bảo cho các công ty thu được lợi nhuận từ những cải tiến mà các nhà nghiên cứu của họ đề xuất. Thông thường thì nghiên cứu trong khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng tại các trường đại học và tại các viện nghiên cứu của chính phủ không dẫn đến các bằng sáng chế, dù tính sáng tạo của nó ở mức độ nào chăng nữa.[23] Do đó, việc thiếu vắng những bằng sáng chế ở Việt Nam là một hệ quả, không phải của một sự thất bại trong hệ thống đại học, mà là chất lượng thấp của khu vực tư nhân.
Như đã chỉ ra trong báo cáo Vallely, Hàn Quốc có rất nhiều bằng sáng chế. Lý do là vì nền công nghiệp Hàn Quốc đã phát triển ở mức độ cao, với nhiều tên tuổi lớn trên thế giới cỏ khả năng cạnh tranh trong các ngành công nghiệp điện tử, xe hơi - và những công ty đặt tại quốc gia đó có mạng lưới R&D dày đặc.
Ngược lại, Việt Nam, cũng như nhiều nước thuộc Thế Giới Thứ Ba khác, không có một công ty quan trọng nào đi đầu trong các sáng tạo kỹ thuật. Và các chi nhánh tại Việt Nam của các công ty đa quốc gia chỉ tham gia vào các lĩnh vực sản xuất, phân phối và các hoạt động liên quan chứ không phải là phát triển sáng tạo kỹ thuật mới.
8.2. Intel
Trong một mục có tiêu đề là “Mức độ khủng hoảng,” bản báo cáo Vallely khẳng định rằng kinh nghiệm của Intel trong việc tuyển người tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy “chất lượng tồi tệ của giáo dục đại học.” Bản báo cáo cũng dẫn các kết quả của một bài kiểm tra trắc nghiệm của 2000 sinh viên ở Thành Phố Hồ Chí Minh và dẫn lời một ai đó tại Intel như sau:
            Intel xác nhận rằng đây là kết quả tồi tệ nhất mà họ đã gặp phải tại tất cả các quốc gia mà họ đã đầu tư. Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế thường dẫn việc   thiếu hụt công nhân và lực lượng quản lý có trình độ là rào cản lớn đối với sự mở rộng của họ.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem liệu báo cáo Vallely có mô tả chính xác những gì mà Intel đã trải qua hay không và đi đến kết luận thích ứng.
8.2.1.  Hoạt động của Intel tại Việt Nam
Trên trang web của mình, Intel công bố rằng các cơ sở được mở rộng đã được hoạch định trước ở Việt Nam sẽ hoạt động trong bốn lĩnh vực: sản xuất, kiểm nghiệm, bán hàng và marketing. Một biểu đồ trong Báo Cáo Trách Nhiệm Công Ty năm 2008 của Intel cho thấy là vào thời điểm 31 tháng 12 năm 2008, Intel đã có cơ sở hoạt động với trên 50 nhân viên tại mười hai nước Thế Giới Thứ Ba, trong đó có Việt Nam. Theo biểu đồ này thì Intel có các cơ sở R&D tại bốn nước trong số đó (Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, và Philippines).
Những công nhân có trình độ cao hoặc kém hơn một chút tại Việt Nam của Intel sẽ làm việc tại các dây chuyền sản xuất, thực hiện các giao thức kiểm nghiệm sản phẩm, và cố gắng tăng sức mua các sản phẩm của Intel trong nước. Ngoài ra, Intel cần nhân công có trình độ trong các công việc thư ký và quản lý (đôi khi được gọi là “kỹ năng mềm”) để giải quyết các công việc hành chính và quản lý nhân viên Việt Nam. Đối với những mục đính như vậy thì chỉ cần một hai năm học tại một trong những trường dạy nghề tư đang nở rộ tại Thành phố Hồ Chí Minh là đủ; không có một điều gì trong mô tả công việc đòi hỏi đến bằng đại học 4 năm. Nói riêng, chi nhánh tại Việt Nam của công ty không cần đến các kỹ sư hay các nhà khoa học sáng tạo vì nó không có R&D.
Trong những lần đầu khi tôi đến thăm Việt Nam vào năm 1978 và những năm 1980, tôi thường cảm thấy hết sức kinh ngạc trước sự khéo léo của các tài xế và thợ máy Việt Nam, họ có thể sửa chữa và bảo trì những chiếc xe cũ nát của Mỹ từ thời chiếm đóng. Có vẻ như những kỹ năng, sự thông minh, và đôi khi là sự sáng tạo thể hiện khi sửa chữa xe hơi hay tại các cửa hàng sửa chữa xe đạp trong những năm tháng đó vượt quá những gì mà Intel mong đợi từ những nhân viên Việt Nam của mình. Những người này chỉ được yêu cầu phải theo đúng những công đoạn thực hiện mà những nhân viên Mỹ đã vạch ra. Người ta không yêu cầu họ phải sáng tạo.[24] Vì thế, không thể đưa ra những kết luận hợp logic nào về chất lượng của các trường đại học đào tạo 4 năm của Việt Nam từ sự thành công hay thất bại của Intel trong công tác tuyển dụng nhằm thỏa mãn mục tiêu của họ.
8.2.2.  Trả lời của Intel về bản báo cáo Vallely
Được sự giúp đỡ của một người đồng nghiệp, hiện đang là một nghiên cứu viên có thâm niên trong lĩnh vực mật mã tại Intel, tôi đã tiếp cận được với một số người tại Intel có hiểu biết về hoạt động của công ty tại Việt Nam. Tôi đã đề nghị họ đọc những phát biểu về Intel trong bản báo cáo Vallely và trả lời. Dưới đây là phát biểu của Intel:[25]
Mục tiêu của Intel là phối hợp với chính phủ Việt Nam, các trường đại học, và ngành kinh doanh khác để phát triển một đội ngũ nhân công kỹ thuật cao có chất lượng quốc tế. Đây không phải là điều mà chúng tôi có thể hay muốn làm một cách đơn độc, lại càng không phải là một việc có thể xảy ra ngay lập tức. Nó cần phải có được sự hỗ trợ và đóng góp của tất cả các bên có liên quan. Từ khi chúng tôi bắt đầu hoạt động tích cực ở Việt Nam, chúng tôi đã có được một định hướng tích cực.
Intel muốn xây dựng một nhà máy kiểm nghiệm dây chuyền bán dẫn lớn nhất thế giới tại Việt Nam. Trong thời gian gần đây, chúng tôi đã có được một số thành công trong việc tuyển dụng sịnh viên kỹ thuật. Từ khi chúng tôi bắt đầu đánh giá khả năng của sinh viên, họ đã chứng tỏ được khả năng tiếp thu tiếng Anh tốt hơn, và những kỹ năng mềm của họ đã có tiến bộ. Khi Intel thông báo các yêu cầu của mình, sinh viên và các trường đại học đã có những đáp ứng có tính xây dựng. Chúng tôi còn cả một chặng đường, nhưng những tiến bộ gần đây là đáng kể.
Khi tiếp tục đi trên con đường này cùng với các thành viên đối tác, và khi các trường đại học và chính phủ và giới kinh doanh tập trung vào các ứng dụng cụ thể của kỹ năng kỹ thuật, chúng tôi tin rằng lực lượng nhân công kỹ thuật cao của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh ở mức độ toàn cầu.
Phát biểu của Intel không ủng hộ cho cái gọi là các trường đại học Việt Nam đang khủng hoảng, hay cần phải có những thay đổi mạnh mẽ trong việc quản lý. Báo cáo Vallely rõ ràng là đã xuyên tạc và bóp méo những kinh nghiệm của Intel để phục vụ cho mục tiêu chính trị của mình.

9.   Học tập ở nước ngoài

Bản báo cáo Vallely khẳng định rằng do chất lượng học tập ở bậc đại học kém nên “Các sinh viên Việt Nam thường không thể cạnh tranh [với] các sinh viên đến từ Ấn Độ và Trung Quốc … khi đăng ký vào các chương trình cao học có chất lượng cao tại Mỹ và Châu Âu.” Nhưng nó không đưa ra được một bằng chứng nào để minh chứng cho khẳng định nói rằng các sinh viên Việt Nam không đủ sức cạnh tranh.[26]
Rất có thể là tại một vài trường đại học của Trung Quốc và Ấn Độ, các ứng viên của họ thành công hơn so với các ứng viên đến từ các nước thuộc Thế Giới Thứ Ba, bao gồm cả Việt Nam. Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều có nhiều năm kinh nghiệm hơn trong việc gửi sinh viên của họ ra nước ngoài để tiếp tục học tập, và thường thì số ứng viên từ hai nước này cũng cao hơn rất nhiều. (Cũng cần nhắc lại rằng Trung Quốc và Ấn Độ chiếm khoảng 37% dân số thế giới; còn Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1.28%.)
Trong trường hợp Việt Nam, có một hiện tượng đặc biệt có thể giúp giải thích phần nào cho sự ít ỏi của ứng viên so với một vài nước khác, tương tự như Việt Nam, có truyền thống đòi hỏi cao trong giáo dục toán học. Nhiều chương trình Ph.D. toán yêu cầu phải có điểm TOEFL rất cao. Lý do là vì tại các trường đại học của Mỹ, nguồn tài chính chủ yếu cho việc học tập sau đại học là làm trợ giảng cho các môn học nhập môn - một công việc đòi hỏi kiến thức tiếng Anh giao tiếp rất vững vàng.
Thường thì các sinh viên từ Hà Nội có trình độ toán cao hơn, nhưng lại không có điểm TOEFL cao, trong khi đó thì đối với các sinh viên từ phía nam, điều ngược lại xảy ra. Tất nhiên là có nhiều ngoại lệ đối với khẳng định trên, nhưng nói chung thì khó tìm được một ứng viên Việt Nam dẫn đầu cả về toán học và tiếng Anh.
Theo như tôi biết thì Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới mà ở đó,  nơi   đào tạo khoa học tốt nhất và nơi giảng dạy tiếng Anh tốt nhất lại gần như hoàn toàn khác nhau. Ở Trung Quốc chẳng hạn, thì những nơi này là một. Trong trường hợp của Ấn Độ, vấn đề này không tồn tại vì tiếng Anh là ngôn ngữ của tầng lớp cao, và tiếng Anh được dùng trong giảng dạy tại tất cả các trường đại học.

10. Một vài khuyến nghị

Nếu như tôi được yêu cầu đóng góp một số lời khuyên cho chính phủ Việt Nam để nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao, thì chúng sẽ khác hẳn những gì mà Viện Ash hay Viện Hàn Lâm Quốc Gia Hoa Kỳ đã đưa ra. Những khuyến nghị của tôi là như sau:
1.  Tăng lương cho các giảng viên, giáo sư, và các nghiên cứu viên để có thể tiếp cận được với mức lương ở khu vực tư nhân.
2.  Cấp học bổng cho sinh viên ở bậc cao học (Master) trong các ngành toán hoc và khoa học.
3.  Cấp kinh phí cho các chương trình mùa hè dành cho các sinh viên tài năng (ví dụ như những sinh viên có kết quả tốt trong các kỳ thi Olimpic toán).
4.  Cấp kinh phí để xây dựng các chương trình đặc biệt dành cho nữ sinh, đặc biệt là tại các trường trung học và đại học, để khuyến khích nữ giới lựa chọn nghề nghiệp trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. (Quỹ Kovalevskaia dành những phần thưởng cho các nhà khoa học nữ có trình độ cao, nhưng lại không có một chương trình tương tự như vậy dành cho nữ giới ở trình độ thấp hơn).
5.  Cấp kinh phí để xây dựng các chương trình đặc biệt dành cho các dân tộc thiểu số, để họ có thể tham gia trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. Cả học sinh nữ lẫn các học sinh người dân tộc thiểu số đều cần được khuyến khích tham gia và các hoạt động như các kỳ thi Olimpic toán. (Vào năm 2007, Quỹ Kovalevskaia đã cấp kinh phí cho một cậu bé người dân tộc miền núi thiểu số ở Peru tham gia vào cuộc thi IMO tại Hà Nội, và cậu đã dành được huy chương bạc.)
6.  Cố gắng vận động, gây ảnh hưởng đối với các công ty kỹ thuật cao đa quốc gia để xây dựng các cơ sở nghiên cứu và phát triển (không chỉ có các công việc kinh doanh, marketing, kiểm nghiệm và sản xuất) tại Việt Nam, để từ đó có thêm nhiều công việc đòi hỏi trình độ cao trong các khu vực tư nhân, tạo thêm cơ hội cho sự sáng tạo của các nhà khoa học trẻ Việt Nam. Hiện tại thì gần như tất cả các nghiên cứu khoa học đều chỉ do nhà nước hỗ trợ chứ không có sự tham gia của khu vực tư nhân. Nếu như Intel có thể xây dựng các cơ sở R&D tại Malaysia và Phillippines thì tại sao nó không thể làm như vậy tại Việt Nam?
7.  Đưa ra một loại thuế mới đối với các công ty ở khu vực tư nhân - kể cả với các công ty đa quốc gia - để chỉ sử dụng vào các hoạt động của chính phủ nhằm hỗ trợ giáo dục và nghiên cứu khoa học. [27]
8.  Đừng phung phí tiền của chính phủ Việt Nam bằng cách chi trả cho các cái gọi là “chuyên gia” Hoa Kỳ, hay chi trả cho các trường đại học của Mỹ để họ dựng lên một đại học ở Việt Nam.
Mục đính của các khuyến nghị 7 và 8 là để cho chính phủ Việt Nam có thêm kinh phí từ các khuyến nghị 1, 2, 3, 4, 5. Khác với bản báo cáo Vallely, cho rằng không cần thiết phải tăng thêm kinh phí tài trợ cho giáo dục bậc cao ở Việt Nam, tôi cho rằng một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao chắc chắn PHẢI LÀ tài chính.

11. Kết luận

Một vài nhà bình luận Việt Nam mô tả tình trạng hiện nay bằng các ngôn từ của ngày tận thế, và tuyên bố rằng các vấn đề của giáo dục bậc cao đã trở nên trầm trọng đến mức cần phải có sự can thiệp từ phía bên ngoài - bởi những người nước ngoài - mới có thể dẫn đến cải cách. Một số thậm chí còn tin tưởng rằng vấn đề này chỉ có thể được giải quyết nếu như toàn bộ hệ thống kinh tế và chính trị được thay đổi - chắc với ý là bằng một mô hình nào đó theo mô hình tư bản phương tây.
Trong tiếng Anh, có một câu nói là: “Hãy coi chừng những ước muốn của mình.”[28] Lý do (thường không nói đến) là bởi vì “anh sẽ lĩnh đủ nó.”[29] Khi tôi ở Mátxcơva vào những năm 1970 và 1980, tôi thấy rất nhiều trí thức đầu đàn của Liên Xô chán ghét hệ thống xã hội chủ nghĩa mà họ đang sống và chỉ muốn được thấy nó bị thay thế bởi một hình thức kiểu phương Tây cả về kinh tế và chính trị. Họ thường tỏ ra rất ngưỡng mộ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, và họ thường không hiểu được những khó khăn và thất bại của hệ thống Mỹ.
Bây giờ thì họ đã lĩnh đủ những gì họ mong đợi - Hệ thống xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã sụp đổ và được thay thế bởi một dạng thô sơ của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những hệ lụy đối với nghiên cứu khoa học và giáo dục là hết sức tai hại. Nước Nga bây giờ không còn là nơi mà khoa học, toán học và giáo dục bậc cao có tầm cỡ thế giới. Gần đây, Math Reviews[30] có nhờ tôi đọc nhận xét một bài báo đăng bằng tiếng Nga về mật mã (điều này rất hiếm xảy ra vì thời gian gần đây chẳng có gì được đăng bằng tiếng Nga cả). Danh sách các tài liệu trích dẫn của nó đều là các bài đã cũ từ 15 năm trước - một điều rất lạ so với một ngành toán ứng dụng đang phát triển rất nhanh chóng - và “ý tưởng mới” của tác giả đã được phát triển và công bố từ cuối những năm 1990. Trình độ của tác giả giống như của một ai đó từ một nước Thế Giới Thứ Ba chậm phát triển. Một đất nước mà trước kia từng là đối thủ cạnh tranh khoa học của nước Mỹ thì ngày nay chỉ là một vũng nước đọng.
Nhiều năm trước Hoàng Tụy đã giải thích cho tôi rằng khác với một vài nước khác (chắc là ông đang nghĩ chủ yếu đến Trung Quốc), từ khi giành độc lập năm 1945, Việt Nam đã tránh được nhiều sự đổi hướng đột ngột - những thay đổi đã gây nên rất nhiều gian khổ ở các nơi khác trên thế giới. Người Việt Nam, theo quan sát của ông, thích những sự thay đổi vừa phải và giải quyết những bất đồng một cách êm thấm, sao cho không dẫn đến những sự đàn áp hay làm nhục đối phương. Nếu như cái nhìn này về cách thực hiện cải cách ở Việt Nam vẫn còn chính xác thì rất có thể nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao ở Việt Nam mà vẫn không đoạn tuyệt với hệ thống xã hội chủ nghĩa, không sỉ nhục những người được đào tạo tại Liên Xô các nước khối Đông Âu cũ, và không giao phó tương lai của Việt Nam cho những người được gọi là “chuyên gia” Mỹ.
Neal Koblitz
Khoa Toán, Đại học Washington, Seattle, USA
koblitz@math.washington.edu
(Nguồn Mạng giáo dục)

Harvard bàn về khủng hoảng giáo dục đại học VN

Quy mô của cuộc khủng hoảng 
Rất khó để phóng đại tính chất nghiêm trọng của những thách thức đang đặt ra với Việt Nam trong giáo dục đại học - cao đẳng (ĐH - CĐ). Chúng tôi tin rằng nếu không có một sự cải cách khẩn cấp và căn bản đối với hệ thống giáo dục ĐH - CĐ, Việt Nam sẽ không đạt được đúng mức tiềm năng to lớn của mình [1].
Sự phát triển kinh tế ở Đông Á và Đông Nam Á đã cho thấy quan hệ mật thiết giữa phát triển và giáo dục ĐH - CĐ. Cho dù trong các nước và vùng lãnh thổ thịnh vượng nhất ở khu vực – Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, và gần đây là Trung Quốc - mỗi nơi đều đi theo những con đường phát triển độc đáo, nhưng điểm chung trong thành công của họ là sự theo đuổi nhất quán một nền khoa học và giáo dục ĐH – CĐ chất lượng cao.  
Một số nước tương đối kém thành công hơn ở Đông Nam Á – Thái Lan, Philippines và Indonesia - lại là một câu chuyện mang tính cảnh báo. Những nước này nói chung đã không đạt được chất lượng cao trong khoa học và giáo dục ĐH – CĐ và họ đã thất bại trong việc phát triển những nền kinh tế tiến bộ. Đó không phải là một điềm tốt cho tương lai nếu các trường đại học Việt Nam tụt hậu xa so với chính những láng giềng Đông Nam Á không mấy nổi bật của họ. 
Việt Nam không có một trường đại học nào có chất lượng được công nhận. Không có một cơ sở nào của Việt Nam có tên trong bất cứ danh sách được sử dụng rộng rãi nào (nếu nhận định trên còn chưa rõ ràng) tập hợp các trường đại học hàng đầu ở châu Á. Về phương diện này thì Việt Nam khác xa với cả những nước Đông Nam Á khác, hầu hết các nước này đều có thể kiêu hãnh về ít nhất một vài cơ sở có đẳng cấp. Các trường đại học Việt Nam phần lớn bị cô lập khỏi các dòng chảy kiến thức quốc tế [2], như những gì thể hiện qua số liệu nghèo nàn tại thống kê dưới đây:
Bài viết được xuất bản trên các tạp chí khoa học năm 2007
Cơ sở
Quốc gia
Số bài viết
Đại học tổng hợp Quốc gia Seoul
Hàn Quốc
5.060
Đại học tổng hợp Quốc gia Singapore
Singapore
3.598
Đại học tổng hợp Bắc Kinh
Trung Quốc
3.219
Đại học tổng hợp Phúc Đan
Trung Quốc
2.343
Đại học tổng hợp Mahidol
Thái Lan
950
Đại học tổng hợp Chulalongkorn
Thái Lan
822
Đại học tổng hợp Malaya
Malaysia
504
Đại học tổng hợp Philippines
Philippines
220
Đại học Quốc gia Việt Nam (Hà Nội và thành phố HCM)
Việt Nam
52
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Việt Nam
44
Nguồn: Science Citation Index Expanded, Thomson Reuters
Các trường đại học Việt Nam chưa sản sinh được lực lượng lao động có trình độ như đòi hỏi của nền kinh tế và xã hội Việt Nam. Các cuộc điều tra do các hiệp hội thuộc Chính phủ thực hiện cho thấy khoảng 50% sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam không tìm được việc làm đúng chuyên môn, một bằng chứng cho thấy sự thiếu liên kết nghiêm trọng giữa giảng dạy và nhu cầu của thị trường. Với hơn 25% chương trình học ở đại học là dành cho các môn bắt buộc quá nặng về tuyên truyền chính trị, không phải băn khoăn nhiều về việc sinh viên Việt Nam được trang bị rất kém cho cả việc đi làm lẫn việc đi du học.  
Có thể lấy việc Intel tìm cách thuê tuyển kỹ sư cho cơ sở sản xuất của họ ở thành phố HCM làm ví dụ minh hoạ. Khi công ty này thực hiện một cuộc kiểm tra đánh giá theo tiêu chuẩn với 2.000 sinh viên CNTT Việt Nam, chỉ có 90 ứng cử viên, nghĩa là 5%, vượt qua cuộc kiểm tra, và trong nhóm này, chỉ có 40 người có đủ trình độ tiếng Anh đạt yêu cầu tuyển dụng. Intel xác nhận rằng đây là kết quả tệ nhất mà họ từng gặp ở những nước mà họ đầu tư.
Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế cũng cho rằng việc thiếu các công nhân và quản lý có kỹ năng là cản trở lớn nhất đối với việc mở rộng sản xuất. Chất lượng nghèo nàn của giáo dục đại học còn có một ngụ ý khác: đối lập với những người cùng thế hệ ở Ấn Độ và Trung Quốc, người Việt Nam thường không thể cạnh tranh được để lọt qua những khe cửa hẹp của các chương trình đại học cao cấp ở Mỹ và châu Âu.
Chỉ số sáng tạo
Quốc gia
Số  bằng sáng chế được cấp năm 2006
Hàn Quốc
102.633
Trung Quốc
26.292
Singapore
995
Thailand
158
Malaysia
147
Philippines
76
Việt Nam
0
Nguồn: World Intellectual Property Organization, 2008 Statistical Review 
Nguyên nhân khủng hoảng 
Di sản lịch sử
Những vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt trong giáo dục ĐH – CĐ hiện nay là một phần hậu quả của lịch sử hiện đại của đất nước này. Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 19 đến tận năm 1945 đầu tư rất ít ỏi vào giáo dục cấp ba, thậm chí là so với các cường quốc thực dân khác. Hậu quả là, Việt Nam đã bỏ lỡ làn sóng cải cách thể chế trong giáo dục ĐH – CĐ tràn qua phần lớn khu vực châu Á đầu thế kỷ 20. Trong giai đoạn này, rất nhiều cơ sở giáo dục ĐH – CĐ hàng đầu của khu vực đã được thành lập. Hậu quả là sau khi giành độc lập, Việt Nam chỉ có một nền tảng thể chế rất yếu để từ đó xây dựng lên. (Điều này trái ngược hẳn với Trung Quốc, hầu hết các trường đại học đầu bảng của nước này hiện nay đều được thành lập vững chắc từ trước cách mạng).
Quản lý
Nguyên nhân trực tiếp nhất của cuộc khủng hoảng ngày nay là sự thất bại ngiêm trọng trong quản lý. Các trường đại học có chất lượng, từ Boston đến Bắc Kinh, đều có những nhân tố chủ chốt nhất định mà Việt Nam hiện đang rất thiếu [3].
Tự trị: Các cơ sở học thuật ở Việt Nam vẫn chịu một hệ thống quản lý tập trung hoá cao độ. Chính quyền trung ương quyết định số lượng sinh viên các trường được phép tuyển, và (trong trường hợp các trường đại học công lập) lương trả cho các giảng viên đại học. Ngay cả những quyết định mang tính thiết yếu đối với việc vận hành một trường đại học như việc lập khoa cũng do hệ thống quản lý tập trung hoá này kiểm soát. Hệ thống này hoàn toàn không khuyến khích các trường và học viện cạnh tranh hay đổi mới. Thù lao được trả căn cứ vào thâm niên, và lương cứng thấp đến nỗi các giảng viên đại học phải “đi đêm” rất nhiều để có thể đảm bảo cuộc sống. Khác hẳn với Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa thực sự khuyến khích người Việt Nam học ở nước ngoài. 
Các thí sinh trong kỳ thi đại học. Ảnh: VNN
Lựa chọn dựa trên thành tích: Tham nhũng lan tràn và việc mua bán bằng cấp, học hàm, học vị là rất phổ biến [4]. Các hệ thống nhân sự đại học đều mù mờ và việc bổ nhiệm thường dựa trên những tiêu chuẩn phi học thuật như thâm niên, lý lịch gia đình và chính trị, và các mối quan hệ cá nhân. Các khoa và các cấp hành chính cao hơn có xu hướng do các cá nhân từng được đào tạo ở Liên Xô hay Đông Âu nắm giữ, những người này không nói được tiếng Anh và, trong không ít trường hợp không mặn mà với các đồng nghiệp trẻ được đào tạo ở phương Tây. 
Các mối liên hệ và tiêu chuẩn quốc tế: Sản sinh kiến thức là việc của một doanh nghiệp không biên giới, nhưng các cơ sở học thuật ở Việt Nam lại thiếu những mối liên hệ quốc tế có ý nghĩa. Trên thực tế, các học giả trẻ được đào tạo ở nước ngoài thường xuyên lấy lý do để tránh làm việc trong các cơ sở học thuật ở Việt Nam là họ lo sợ không thể gắn bó với lĩnh vực của mình. Như GS. Hoàng Tụy miêu tả, giới học thuật Việt Nam rất hướng nội và không đánh giá bản thân theo các tiêu chuẩn quốc tế. 
Trách nhiệm giải trình: Các trường đại học Việt Nam không chịu trách nhiệm trước các cổ đông bên ngoài, và đáng trách là trong đó có cả những người tuyển dụng. Trong nội bộ hệ thống công lập, việc rót vốn không liên quan đến công việc hay chất lượng theo bất cứ hình thức đáng kể nào. Tương tự, kinh phí nghiên cứu của Chính phủ cũng không được cấp một cách có cạnh tranh mà chủ yếu được coi là một hình thức bổ sung lương. Vì có quá nhiều người thèm muốn những cánh cửa hẹp vào các trường đại học - chỉ 1/10 người Việt Nam ở độ tuổi học đại học được tuyển sinh vào các trường sau phổ thông – nên các trường đại học Việt Nam không phải chịu áp lực đổi mới nào. Họ có một thị trường bị giam cầm, vì du học chỉ là sự lựa chọn của một thiểu số rất nhỏ. 
Tự do học thuật: Ngay cả khi so sánh với Trung Quốc, các trường đại học ở Việt Nam cũng thiếu động lực tri thức ở một mức độ đáng kể. Ngay cả khi các trường đại học đang dần được phép nới lỏng hơn, vẫn có một mạng lưới các kiểm soát và kiềm chế chính thức và không chính thức để đảm bảo rằng các trường đại học vẫn tiếp tục suy tàn về tri thức trong khi các cuộc tranh luận trong xã hội ngày càng sôi nổi hơn. 


Có một số ẩn ý trong luận điểm trên. Trước hết, rào cản chính đối với việc cho ra những kết quả cải thiện hơn trong giáo dục ĐH – CĐ lại không phải là chuyện tài chính. Trên thực tế, tính theo tỉ lệ trong GDP, Việt Nam chi nhiều cho giáo dục hơn nhiều nước khác trong khu vực. Con số này còn chưa tính đến số tiền lớn mà chính các gia đình Việt Nam đầu tư vào giáo dục cho con cái họ, ở nhà và ở nước ngoài. Nhưng tiêu tiền như thế nào lại là chuyện khác.  
Thứ hai, đầu tư vào du học vẫn chưa đủ để cải thiện hệ thống. Nếu môi trường chuyên môn không được đại tu, sẽ không có nhiều người Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài muốn quay về làm công tác giảng dạy.

Phần 2: Đối phó

1. Để có sự phân tích hệ thống và so sánh về những thách thức chính sách đối với Việt Nam, xem “Choosing Success: The Development of East and Southeast Asia and Lessons for Việt Nam”, tại: http://www.innovations.harvard.edu/showdoc.html?id=98251.

2. Hệ thống đại học Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề từ hệ thống học thuật của Liên Xô, trong đó các trường đại học về cơ bản là các cơ sở giảng dạy, còn nghiên cứu là việc của các viện nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu tại các trường đại học nhưng chưa thành công, nguyên nhân có nêu dưới đây. Theo Bảng 1, các viện nghiên cứu của Việt Nam cũng không hoạt động tốt lắm.

3. Phân tích của chúng tôi về những thất bại trong quản lý của Việt Nam chịu ảnh hưởng từ những tìm hiểu của Task Force về giáo dục ĐH – CĐ, do WB và UNESCO tập hợp, do GS. Henry Rosovsky của ĐH Harvard và GS. Mamphela Ramphele của ĐH Cape Town làm đồng chủ tịch. Trong báo cáo cuối cùng của mình, Peril and Promise: The Challenges of Higher Education in Developing Countries, Task Force kết luận rằng quản lý là rào cản cơ bản phổ biến đối với việc đạt được những kết quả tốt. (Có tại http://www.tfhe.net). GS. Rosovsky là cố vấn của Viện Ash trong các hoạt động liên quan đến cải cách thể chế ở Việt Nam.

4. Cần phải nhấn mạnh rằng một trong những thành tố của hệ thống đại học giúp nó không bị tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu làm cho què quặt là các kỳ thi tuyển sinh đại học. Chính phủ phải huy động rất nhiều nguồn lực đáng kể để đảm bảo quá trình thi cử không có gian lận. Kết quả là, những sinh viên được nhận vào học là những sinh viên tài năng và nhiều người có thể thành công trong việc bổ sung cho các giáo trình cũ kỹ bằng cách tự học.


(Nguồn Tuần Việt Nam)


LUẬN BÀN VỀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM







GS.TSKH VŨ MINH GIANG
Tại buổi tọa đàm “Triết lý giáo dục Việt Nam” do Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, GS.TSKH Vũ Minh Giang – Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đã đến dự và phát biểu ý kiến. Sau đây là tóm tắt ý kiến của GS.TSKH Vũ Minh Giang tại buổi tọa đàm.
Điều đầu tiên tôi muốn đưa  ra là những vấn đề mà các giáo sư trình bày trước tôi đã đặt ra về triết lý giáo dục. Vậy Việt Nam có triết lý giáo dục hay chưa? Người thì cho rằng đã có triết lý, người thì cho rằng chưa. Nếu chúng ta đồng nhất triết lý với những cái ta quen gọi là phương châm, đường lối, nguyên tắc thì chúng ta đã có triết lý rồi. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ thấu đáo, tìm ra theo chiều sâu thì dường như chúng ta chưa có triết lý. Cho nên, khi đụng vào vấn đề này thì người ta vin vào triết lý này, làm điều kia thì người ta vin vào triết lý kia. Vì vậy, quan điểm của tôi là chưa có triết lý giáo dục.
Người ta cho rằng thị trường giáo dục Việt Nam cực kỳ béo bở. Theo tôi được biết, có trường Đại học quốc tế ở Việt Nam học 7, 8 năm chưa xong thì Trường cứ giữ lại để học tiếp, thậm chí Trường còn thích sinh viên thi trượt vì không tuyển đầu vào, ai thích cứ vào học, học được thì học, học không được thì không có bằng. Và cứ mỗi lần thi lại thì là tiền. Trường Đại học này thuộc một tập đoàn giàu có ở Việt Nam, làm giàu trên mảnh đất giáo dục ở Việt Nam. Tôi cho rằng đó là hiện tượng không bình thường.
Rồi có tâm lý muốn cào bằng, mà cào bằng không có triết lý cũng rất nguy hiểm. Giáo dục phổ thông và giáo dục đại học khác nhau về căn bản. Giáo dục phổ thông là tạo nền, nó là giáo dục công dân, dạy chữ. Giáo dục đại học là đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao động. Vì vậy không thể có một nền giáo dục đại học chung của Việt Nam, đấy là điều không tưởng. Nếu đại học chúng ta muốn có một nền chung, công nhận bằng cấp là không bao giờ có, và không nước nào làm. Điển hình như Mỹ là nước có nền giáo dục hàng đầu, hàng trăm trường đại học tốt nhất thế giới phần lớn đều ở Mỹ, nhưng cũng có nhiều trường èo uột hơn Việt Nam cũng nằm ở Mỹ. Tại Mỹ, hệ thống giáo dục được phân tầng sâu, đáp ứng đủ mọi yêu cầu, do đó trường đại học tư ở Mỹ không bao giờ khó khăn tuyển sinh như các trường tư ở Việt Nam. Việt Nam cần xem lại vấn đề tuyển sinh đại học 3 chung như hiện nay.
Phải hiểu lịch sử giáo dục Việt Nam chịu tác động gì? Triết lý giáo dục phải có sự tích hợp của lịch sử giáo dục.
Bên cạnh đó, muốn hiểu triết lý giáo dục phải hiểu được xu thế thế giới. Thế giới bây giờ là phẳng và biến động không ngừng. Hiện kinh tế tri thức đang lên ngôi, tức là giá trị gia tăng là hàm lượng trí tuệ. Chính vì vậy, Việt Nam cần xác định cụ thể Triết lý giáo dục là gì? Và  theo tôi bắt đầu bằng từ 5 hiểu: Chúng ta là ai trong hiểu chăm học; Phải hiểu được những yêu cầu của đất nước, của Đảng, của nhân dân với giáo dục nó là cái gì? Chứ đừng bằng tư duy chủ quan của người lãnh đạo, quần chúng bao giờ cũng thông minh hơn một người, và nhu cầu thì không bao giờ cớ thể biết hết được; Phải hiểu lịch sử giáo dục Việt Nam; hiểu xu thế giới phẳng; hiểu những yêu cầu của đất nước, của nhân dân, của Đảng là gì; Phải hiểu nhân tố nào tác động đến giáo dục Việt Nam, yếu tố thứ nhất đó là gia đình, giáo dục gia đình không nên khoán hết cho xã hội và nhà trường; thứ hai đó là cộng đồng, chẳng hạn sức học của con kém, nhưng cũng chịu sự tác động của cộng đồng nên vẫn đưa con đi thi đại học dù biết không có khả năng đỗ; thứ ba là hoàn cảnh lịch sử Việt Nam khá phong phú, nhưng biến động. Những biến động này tác động nhiều đến giáo dục Việt Nam; thứ tư là môi trường văn hóa ở Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều từ bên ngoài và cuối cùng là chịu sự tác động của yếu tố chính trị.
Ngoài ra, khi đi tìm triết lý giáo dục, chúng ta phải dựa vào truyền thống hiếu học, truyền thống trọng học. Có lẽ chỉ có ở Việt Nam mới có chuyện sẵn sàng bán nhà to chuyển sang căn nhà bé hơn để có tiền cho con đi du học, sự kỳ vọng vào con cái đến mức như vậy chỉ có ở Việt Nam.
Cùng với đó, Đảng và Nhà nước coi việc học hành là quốc sách hàng đầu. Thêm nữa, chúng ta cần phải khai thác hết những tư tưởng của Hồ Chí Minh trong vấn đề giáo dục, đào tạo để soi đường; chúng ta có sự đồng thuận của xã hội để có một nền giáo dục lành mạnh phát triển. Thời điểm này, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn và có một nguồn lực nhất định để đầu tư cho giáo dục và dễ dàng huy động mọi nguồn lực đầu tư cho giáo dục.
Cuối cùng, triết lý giáo dục của tôi được khái quát, gợi mở trong 5 chữ: Ái, Tôn, Vị, Trọng, Khai.
Thứ nhất, Ái là ái quốc. Triết lý giáo dục của Việt Nam cần quán triệt chủ nghĩa yêu nước bởi nếu không có tinh thần yêu nước thì sẽ không nghĩ ra được những chương trình giáo dục hay và nên quán triệt chủ nghĩa này vào trong giáo dục.
Thứ hai, Tôn là cần phải có ý thức thượng tôn dân tộc, đó là một sức mạnh của dân tộc.
Thứ ba, Vị là vị nhân sinh, phải tôn trọng thực tại khách quan, tôn trọng xã hội, xem xã hội cần gì để đào tạo theo nhu cầu.
Thứ tư, Trọng là trọng nguyên khí hay nói cách khác chính là trọng người tài.
Thứ năm, Khai là khai phóng dân tộc, mở ra với thế giới./.
(Nguồn: cpv.org.vn)

Đổi mới giáo dục không thể ngẫu hứng

Sáng 16/12, hội thảo khoa học toàn quốc về "Tâm lý học và Giáo dục học với sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam" tổ chức tại Hà Nội. Nhiều giáo sư, phó giáo sư đầu ngành, nhà giáo ưu tú đã chia sẻ, đề xuất tâm huyết nhằm phát triển giáo dục nước nhà.
GS Nguyễn Đức Thạc thẳng thắn cho rằng, đang diễn ra sự tha hóa trong nhân cách của một bộ phận nhà giáo. Nguyên nhân chính là do đồng lương không đủ đảm bảo cuộc sống gia đình.
GS Nguyễn Đức Thạc hy vọng Bộ Giáo dục, các cấp quản lý sẽ tiếp thu những ý kiến đóng góp của những nhà giáo tâm huyết để đổi mới giáo dục. Ảnh: Hoàng Thùy.
Phó Chủ tịch hội khuyến học Việt Nam Phạm Tất Dong thì cho rằng giáo dục là không loại trừ một ai và phải thực hiện giáo dục cưỡng bức. Thế nhưng theo báo cáo, một vài năm gần đây Việt Nam có tới 1,2 triệu học sinh bỏ học, như vậy là loại trừ quá nhiều.
Cũng trăn trở với nền giáo dục hiện tại, GS Nguyễn Minh, nguyên Chủ tịch Viện Tâm lý Giáo dục Khánh Hòa cho biết trong một xã hội mà người dân tin rằng cái gì không làm được bằng tiền thì có thể làm được bằng rất nhiều tiền, giáo dục tất yếu sẽ giảm sút. Tình trạng chạy trường, chạy lớp vẫn còn phổ biến thì nguyên nhân tham nhũng trong giáo dục cần phải được chú ý.
Theo giáo sư, giáo dục của đất nước chịu ảnh hưởng từ ba nền giáo dục, Nho giáo, Pháp, Nga nên có đầy đủ những hạn chế như nặng khoa cử, bằng cấp, thiếu tinh hoa và đề cao quá mức chứng năng phục vụ chính trị.
GS Mạc Văn Trang (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) nhận định, hiện nay chân, thiện, mỹ trong nhà trường không được coi trọng. Giáo viên dạy học sinh học văn mẫu, một số lại đối xử thiếu nhân đạo với học sinh và cái đẹp ở trường học phần nhiều là do quảng cáo. Ông cho rằng, hiện nay học sinh đang phải học rất nhiều thứ vô ích, học xong không ứng dụng được vào việc gì và còn quá nhiều phong trào thi đua giả dối.
GS Phạm Tất Dong cho rằng một nền giáo dục cũ không thể chắp vá bởi nó cũng giống như chiếc áo, nay vá một miếng, mai một miếng thì áo sẽ càng rách nhanh hơn. Ảnh: Hoàng Thùy.
Để khắc phục tình trạng trên và từng bước đổi mới nền giáo dục, GS Nguyễn Đức Thạc cho rằng cần phải bắt đầu từ cơ sở. Ở thời kỳ Bắc Lý (tên ngôi trường khởi đầu của phong trào thi đua Hai tốt), giáo viên sáng tạo, tìm tòi những cách dạy tốt nhất. Lương của họ đảm bảo chi dùng cho cuộc sống. Chính điều đó đã thúc đẩy người thầy toàn tâm toàn ý với nghiệp dạy học.
Vị giáo già kiến nghị, để đổi mới giáo dục trước hết cần đổi mới cơ chế đãi ngộ với giáo viên. Gần đây Bộ GD&ĐT có ban hành quyết định phụ cấp thâm niêm nhưng ban hành mãi mà chưa có hướng dẫn thực hiện.
GS Phạm Tất Dong (Phó Chủ tịch hội khuyến học Việt Nam) cho rằng đổi mới là không được ngẫu hứng. Quá trình đổi mới phải được làm một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Ông nhấn mạnh, nguyên tắc của đổi mới giáo dục là không được vận hành theo cơ chế thị trường, phải có nền giáo dục thực nghiệm và thực hiện dân tộc, khoa học, đại chúng.
Muốn làm được điều đó, cần cấu trúc lại hệ thống giáo dục, xây dựng giáo dục thường xuyên mang tầm vóc quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "Học không chán, dạy không mỏi", đó là vấn đề cơ bản nhất phải thực hiện, nhưng hiện nay giáo dục của tồn tại thực tế "Học thì chán, dạy thì mỏi".
GS Nguyễn Minh cho rằng giáo dục nước ta có đầy đủ những hạn chế như nặng khoa cử, bằng cấp, thiếu tinh hoa và đề cao quá mức chứng năng phục vụ chính trị. Ảnh: Hoàng Thùy.
"Tôi cho rằng một nền giáo dục cũ không thể chắp vá bởi nó cũng giống như chiếc áo, nay vá một miếng, mai một miếng thì áo sẽ càng rách nhanh hơn", GS Dong nói.
Với GS Nguyễn Minh, muốn đổi mới cần thay đổi triết lý giáo dục. Ông đề xuất việc học phải đi vào thực chất, học gì thi nấy, không nặng thành tích và công tác quản lý cũng phải được đề cao. Những người đứng đầu ngành cần vi hành tận nơi, kiểm tra chất lượng dạy và học cụ thể chứ không thể chỉ nghe báo cáo. Đặc biệt, hiệu trưởng không được bổ nhiệm những người kém chuyên môn, tạo thiệt thòi cho giáo dục.
Còn GS Mạc Văn Trang lại cho rằng giáo dục cũng giống như kinh tế, phải đua nhau thì mới phát triển được. Theo ông, trước hết phải chấn chỉnh từ trường học. Phải làm sao cho trường ra trường, lớp ra lớp chứ không thể để học sinh và giáo viên mầm non phải lội bì bõm dưới nước để vào lớp. "Khi trường lớp còn chưa đảm bảo thì nói gì đến chất lượng với toàn diện", thầy Trang nhấn mạnh.
(Nguồn Vnexpess)

Bài 01: Làm quen với JavaScript

1. JavaScript là gì?
JavaScript được thiết kế để tạo ra các tương tác vào các trang HTML
JavaScript là một ngôn ngữ kịch bản (scripting language)
Một ngôn ngữ kịch bản là một ngôn ngữ lập trình nhẹ
JavaScript thường được nhúng trực tiếp vào các trang HTML
JavaScript là một ngôn ngữ thông dịch nghĩa là script  thực hiện mà không cần sự biên dịch
JavaScript thì hoàn toàn miễn phí

2. Javascript có thể làm gì?
- JavaScript cung cấp cho những designer một công cụ lập trình vì HTML là không phải là một ngôn ngữ lập, nhưng JavaScript là một ngôn ngữ lập trình với cú pháp rất đơn giản. Hầu hết mọi người có thể nhúng các đoạn mã JavaScript vào những trang HTML làm cho nó trở nên sinh động hơn.
- JS có thể đưa vào trang HTML một đoạn văn bản mới mà trước đó nội dung của trang web này chưa hề có.
- JS có thể phản ứng lại với một sự kiện nào đó như người sử dụng nhấn chuột lên một phần tử của trang HTML hoặc thay đổi một giá trị nào đó trong ô nhập liệu …
- JS có thể đọc hoặc thay đổi nội dung của các phần tử trong trang HTML.
- JS có thể dùng để kiểm tra dữ liệu trước khi trình duyệt gửi dữ liệu đến máy chủ. Điều này giúp cho máy chủ không phải xử lý quá nhiều.
- JS có thể dùng để phát hiện các loại trình duyệt khác nhau để có thể tải những phần thiết kế phù hợp với trình duyệt đó
- JS có thể dùng để sử dụng tạo các tập tin cookie lưu trữ và truy xuất thông tin trên máy tính của người truy cập website.

3. Sử dụng Javascript như thế nào?
Để sử dụng JS rất đơn giản, chúng ta chỉ cần đưa các câu lệnh của JS vào trong thẻ <script> của HTML

Ví dụ: Xuất ra trình duyệt câu “Hello World” 
<html>
<body>
<script type="text/javascript">
document.write("Hello World!");
</script>
</body>
</html>



Chúng ta cũng có thể thêm thẻ của HTML vào JS
<html>
<body>
<script type="text/javascript">
document.write("<h1>Hello World!</h1>");
</script>
</body>
</html>
 
Để tránh trường hợp một số trình duyệt không hỗ trợ JS và có thể gây ra lỗi khi website của chúng ta có sử dụng JS, chúng ta thêm một đoạn sau ghi chú của HTML cho nội dung của JS
<html>
<body>
 <script type="text/javascript">
 <!--
 document.write("Hello World!");
 //-->
 </script>
</body>
</html>

4. JavaScript thực thi lệnh khi nào
JS  trong một trang web thực thi theo 2 cách sau:
TH1: Thực hiện lệnh ngay khi trang web được tải về trình duyệt của người sử dụng.
TH2: Thực hiện lệnh khi nhận được một tác động nào đó như nhấn nút, di chuyển chuột hoặc đưa chuột lên một phần tử nào đó của HTML …

Ví dụ: TH1
<html>
<head>
 <script type="text/javascript">
  function message()
  {
   alert("This alert box was called with the onload event");
  }
 </script>
</head>
 
<body onload="message()">
</body>
</html>

Ví dụ: TH1
<html>
<head>
</head>
 
<body>
    <script type="text/javascript">
        document.write("This message is written by JavaScript");
    </script>
</body>
 
</html>

 Ví dụ: TH2

<html>
<head>
 <script type="text/javascript">
  function message()
  {
   alert("This alert box was called with the onload event");
  }
 </script>
</head>
 
<body >
<a href="#" onclick="message()">Click Here</a>
</body>
</html> 
 
5. Vị trí JavaScript trong trang HTML
Đặt trong cặp thẻ <head> của trang web

<html>
<head>
 <script type="text/javascript">
  function message()
  {
   alert("This alert box was called with the onload event");
  }
 </script>
</head>
 
<body onload="message()">
</body>
</html>

Đặt trong cặp thẻ <body> của trang web

<html>
<head>
</head>
 
<body>
 <script type="text/javascript">
  document.write("This message is written by JavaScript");
 </script>
</body>
 
</html>

Đặt trong tập tin .js sau đó nhúng tập tin này vào website. Tạo tập tin alert.js có nội dung sau:

// JavaScript Document
function message()
{
 alert("This alert box was called with the onload event");
}

Sau đó tạo một tập tin HMTL nhúng tập tin .js trên vào
<html>
<head>
<script type="text/javascript" src="alert.js"></script>
</head>
<body >
 <a href="#" onClick="message()">Click Here</a>
</body>
</html>
 
6. Hiển thị dữ liệu bằng JS trên trình duyệt
Để in ra một giá trị nào đó bằng JS ra trình duyệt chúng ta chỉ dụng câu lệnh đơn giản sau

Cú pháp
document.write("<giá trị cần in>");

Ví dụ:

<script type="text/javascript">
document.write("<h1>This is a heading</h1>");
document.write("<p>This is a paragraph.</p>");
document.write("<p>This is another paragraph.</p>");
</script>

Chúng ta có thể dùng câu lệnh này để in các giá trị có thể chuỗi, số, thẻ HTML …

7. Ghi chú trong mã lệnh JS
Khi chúng ta lập trình đoạn mã sẽ không đơn giản là một vài dòng mà đôi khi có thể lên đến cả ngàn dòng lệnh trên một trang nên chúng ta cần ghi chú cho các dòng lệnh, đoạn mã lệnh để khi chúng ta hoặc người khác đọc có thể hiểu được đoạn mã đó có ý nghĩa gì
Có 2 kiểu ghi chú thường được sử dụng trong ngôn ngữ lập trình:
Dòng ghi chú đơn bắt đầu với dấu //

Ví dụ:

<script type="text/javascript">
    // Write a heading
    document.write("<h1>This is a heading</h1>");
    // Write two paragraphs:
    document.write("<p>This is a paragraph.</p>");
    document.write("<p>This is another paragraph.</p>");
</script>

Nhiều dòng ghi chú bắt đầu với dấu /* và kết thúc với */

Ví dụ:

<script type="text/javascript">
 /*
 The code below will write
 one heading and two paragraphs
 */
 document.write("<h1>This is a heading</h1>");
 document.write("<p>This is a paragraph.</p>");
 document.write("<p>This is another paragraph.</p>");
</script>

Chú ý: Chúng ta có thể dùng 2 dòng ghi chú này để đóng tạm thời các dòng lệnh JS trong quá trình lập trình

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Best Buy Coupons