Giới thiệu tác giả:
Năm 1985, GS Neal Koblitz (ĐH Washington) và TS Victor Miller (Cty IBM)
đã đề xuất (độc lập với nhau) phương pháp mật hóa mã công khai dựa trên
đường cong ellip. Ngày nay kỹ thuật Elliptic Curve Cryptography (ECC)
đã tiến bộ rất xa trong cả nghiên cứu hàn lâm lẫn các hệ thống mật hóa
thương mại. Neal Koblitz có khá nhiều công trình về Lý thuyết số và Mật
mã học hiện đại. Ông là người bạn Mỹ lâu năm của giới khoa học nước ta
và đã cùng vợ sáng lập Giải thưởng Kovalevskaia cho các nhà toán học
nữ. (ĐT)
Nay, đứng trước một số bài viết về giáo dục ĐH Việt nam, ông lên tiếng nhận xét về những người nhận xét:
1. Dẫn nhập
Đối với những vấn đề quốc tế quan trọng, quan điểm của
người Mỹ thường bị chia rẽ một cách sâu sắc. Vào những năm sáu mươi,
hàng triệu người Mỹ đã nhiệt tình ủng hộ cho cuộc chiến tranh ở Việt
Nam. Trong số đó không chỉ là bao gồm những người không có học thức mà
đáng tiếc là còn có cả một số giáo sư của Harvard và các trường đại học
khác, họ đã đến Washington để nắm giữ các chức vụ quan trọng trong nội
các của Kennedy và Johnson. Cũng trong thời kỳ này, nhiều người Mỹ khác
đã phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam và đã tổ chức các cuộc biểu
tình rộng lớn. Người Mỹ không nói chung một giọng.
Mục đích của báo cáo này là để trao đổi về một tài liệu
với tiêu đề “Giáo dục bậc cao ở Việt Nam : Khủng hoảng và phản ứng.”[1]
Bài viết này có tiêu đề của Viện Ash thuộc Trường Harvard Kennedy, và
tên của Thomas Vallely và cộng sự của ông ta là Ben Wilkinson. Tôi sẽ
trích dẫn tài liệu này một cách ngắn gọn là “báo cáo Vallely”.
Báo cáo Vallely được viết với quan điểm tương tự như
một báo cáo trước đây về Giáo dục bậc cao ở Việt Nam dưới sự bảo trợ
của Viện Hàn Lâm Hoa Kỳ.[2] Vào năm 2008 tôi đã có một bài bình luận về
tài liệu đó.[3] Trong bài viết này, tôi sẽ không nhắc lại những điểm mà
tôi đã nêu ra trong đó.
Những khó khăn của Việt Nam trong giáo dục
bậc cao là rất phức tạp và cũng khá giống với những vấn đề thường thấy
ở các nước khác, đặc biệt là ở Thế Giới Thứ Ba. Bài viết này không nhằm
phân tích toàn diện vấn đề đó. Mục đích của tôi là xem xét câu hỏi này
trong bối cảnh lịch sử, và cảnh báo các nhà toán học, các nhà khoa học
và các quan chức của Việt Nam cần phải hết sức thận trọng trước những
phân tích và kiến nghị của các đại diện của những tổ chức Hoa Kỳ kiểu
như là Viện Ash.
2. Lịch sử
2.1. Thời kỳ đầu
Sau chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên của tôi vào năm 1978, tôi đã viết
một bản báo cáo[4] trong đó tôi có bình luận về sự kính trọng đối với
tri thức như là một phần trong văn hoá Việt Nam từ thời xa xưa.
Có thể giải thích phần nào cho địa vị cao
quí của những học giả trong truyền thống của người Việt. Trường Đại học
Quốc tử giám cổ kính, được thành lập vào năm 1076, luôn là một địa điểm
hấp dẫn khách du lịch tới Hà Nội... Tấm bia đá dựng năm 1463 có khắc
tên của Lương Thế Vinh, người mà bên cạnh sự nghiệp văn chương của mình
còn được coi là một trong những nhà hình học đầu tiên của Việt Nam.
Những truyền thống đó cũng có thể giải thích được phần
nào vì sao trong số các sinh viên từ các nước đang phát triển theo học
tại Mátxcơva thì sinh viên Việt Nam có lẽ là những người làm việc chăm
chỉ nhất và thành công nhất. Có thể là các nhà toán học trẻ của Việt
Nam từ Mátxcơva, khi quay trở về quê hương sau khi hoàn thành khoá học
sau đại học cũng trải qua những cảm xúc hân hoan, vui sướng giống như
cha ông mình sau khi thi đỗ trong các kỳ thi của hoàng gia.
Tuy nhiên trong thời kỳ thực dân, người Pháp
đã thất bại trong việc phát triển giáo dục bậc cao. Báo cáo Vallely đã
có một phân tích chính xác về vấn đề này :
Những vấn đề mà Việt Nam đang phải đối đầu trong
hệ thống giáo dục đại học ngày nay một phần là do hậu quả từ một lịch
sử cận đại bi thảm của đất nước này.
Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam trong
nửa sau thế kỷ 19 cho đến năm 1945 đã đầu tư rất ít, ngay cả khi so
sánh với các thế lực thực dân khác, vào hệ thống giáo dục đại học. Hậu
quả là Việt Nam đã bỏ lỡ mất cơ hội khi làn sóng cách tân thể chế giáo
dục đại học quét qua phần lớn lục địa Châu Á trong những thập niên đầu
của thế kỷ 20. Đây là thời gian rất nhiều học viện hàng đầu được thành
lập tại vùng này.
Hậu quả là sau khi thu hồi độc lập, Việt Nam
chỉ có một thể chế giáo dục đại học rất yếu kém để làm nền móng xây
dựng (Đây là một điểm tương phản rõ rệt so với Trung Quốc, nơi mà, cho
đến ngày nay, phần lớn các trường Đại Học hàng đầu đã được thành lập
rất lâu trước cách mạng).
Mặc dù báo cáo Vallely đã có lý khi phê bình
nặng nề người Pháp, nhưng mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cũng có
những khía cạnh tích cực. Một số những trí thức hàng đầu của Việt Nam
(như các nhà toán học Lê Văn Thiêm và Nguyễn Đình Ngọc) đã tu nghiệp ở
Pháp và khi trở về đã có những đóng góp to lớn cho Việt Nam. Sau đó,
đặc biệt trong thời gian chiến tranh với Mỹ, một số nhà toán học và
khoa học nổi tiếng nhất của Pháp (như A. Grothendieck, L. Schwartz, và
P. Cartier) đã đến thăm và giảng bài tại Việt Nam và đã cố gắng giúp đỡ
các đồng nghiệp của họ. Người sáng lập ra Uỷ ban Hoa Kỳ về Hợp tác Khoa
học với Việt Nam - Ed Cooperman (ông đã bị ám sát ở California đúng vào
tháng này 25 năm trước), đã từng làm việc một năm ở Pháp trong những
năm 1970 đã có những ấn tượng sâu sắc đối với các hoạt động của các nhà
khoa học Pháp trong việc ủng hộ Việt Nam, và từ đó thôi thúc ông xây
dựng một nhóm tương tự như vậy ở Hoa Kỳ.
Tại thời điểm cam go nhất của cuộc chiến
tranh với Pháp, các lớp học nâng cao vẫn được tổ chức, tại Liên khu Bốn
do Nguyễn Thúc Hào phụ trách, tại khu vực phía tây Hà Nội do Nguyễn
Xiển đảm nhiệm và ở gần biên giới với Trung Quốc do Lê Văn Thiêm phụ
trách. Cũng trong cùng thời kỳ này, một cuốn sách giáo khoa về hình học
do Hoàng Tụy biên soạn đã được xuất bản tại nhà xuất bản của Việt Minh.
Tôi tin rằng đây là cuốn sách toán duy nhất trên thế giới do một phong
trào kháng chiến phát hành. Các sự kiện lịch sử này đã được những nhiều
nhà toán học biết đến thông qua cuộc phỏng vấn của tôi với Hoàng Tuỵ.[5]
2.2. Thời kỳ 1954-1985
Báo cáo Vallely mô tả khoảng thời gian kể từ sự ra đi
của người Pháp đến trước thời kỳ đổi mới một cách tiêu cực như là “một
kỷ nguyên chế độ xã hội chủ nghĩa độc đoán.” Nhưng chính trong giai
đoạn này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trực tiếp gặp Grothendieck để thảo
luận về sự phát triển toán học của Việt Nam trong tương lai, và một vài
năm sau chính ông đã trực tiếp can thiệp mạnh mẽ để xây dựng một tòa
nhà nghiêm chỉnh dành cho Viện Toán học Hà Nội. Đây thực sự là một việc
làm “độc đoán” của ông, vì theo những gì mà tôi biết, chưa có một ông
thủ tướng của một nước tư bản nào từng cương quyết xây dựng một toà nhà
mới dành cho các nhà toán học!
Có thể các độc giả Việt Nam cảm thấy ngạc
nhiên vì trong báo cáo Vallely, khi nói về “lịch sử cận đại đầy bi
thảm” của Việt Nam, chỉ thấy người Pháp phải giơ đầu chịu báng về chính
sách ngược đãi với Việt Nam. Các tác giả dường như đã quên đi toàn bộ
giai đoạn từ năm 1954 đến 1975, khi nước Mỹ ban đầu ủng hộ cho các chế
độ chuyên chế thối nát ở miền Nam, và sau đó từ năm 1964 đến năm 1975,
đã chiếm giữ các tỉnh phía nam và tiến hành một cuộc chiến man rợ chống
lại Việt Nam. Không một điều gì người Pháp đã làm có thể so sánh được
với sự tàn phá trong giai đoạn này - khi mà tổng số lượng bom đổ xuống
miền bắc và miền nam Việt Nam nhiều hơn hẳn bất kỳ một cuộc chiến tranh
khác nào trong lịch sử thế giới, kể cả Chiến tranh thế giới II. Tham
mưu trưởng không quân, tướng Curtis LeMay đã miêu tả chiến lược của Mỹ
ở Việt Nam như sau: “Chúng ta sẽ ném bom và đưa họ trở về thời kỳ đồ
đá.”
Tuy nhiên, chỉ một chút tìm hiểu là ta sẽ
thấy rõ ràng vì sao phần về “di sản lịch sử” trong báo cáo Vallely lại
hoàn toàn không đề cập chút nào tới vai trò của người Mỹ. Tôi được biết
qua trang web của viện Ash rằng trong suốt thời gian này chính ông
Vallely đã ở Việt Nam với tư cách như là một thành viên của Thuỷ quân
lục chiến Hoa Kỳ. Đây là một trong những tổ chức đã gây ra các tội ác
chiến tranh chống lại người Việt Nam.
Hơn nữa, văn phòng của ông Vallely lại có
liên kết với Trường Đại học Harvard, và điều này cũng có thể giải thích
cho sự thiếu vắng những tư liệu liên quan đến vai trò của nước Mỹ trong
“giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi kịch” của Việt Nam. Mặc dù Harvard
đã có nhiều nhà toán học và khoa học lỗi lạc trong danh sách các giáo
sư của mình, nhưng không phải mọi điều trong quá khứ của Harvard đều
đáng khen ngợi. Trường đại học này đóng một vai trò to lớn trong chiến
tranh của Mỹ. Một vài giáo sư về chính trị, như McGeorge Bundy và
Samuel Huntington, là những nhà hoạch định chính sách quan trọng. Bundy
và Huntington đã tham gia xây dựng và cổ vũ nhiệt thành cho chương
trình “Ấp chiến lược” nổi tiếng ở miền nam Việt Nam. Chương trình cưỡng
bức di dời phần lớn nông dân này do quân đội Mỹ và chế độ bù nhìn thực
hiện đã bị lên án là vi phạm luật pháp quốc tế.[7] Chất Napalm - do
Công ty Hoá học Dow sản xuất và được quân đội Mỹ sử dụng để chống lại
dân thường ở Việt Nam – được thử nghiệm lần đầu tiên trên sân vận động
của Harvard. Vì vậy người ta có thể dễ dàng hiểu được vì sao những
người có liên quan tới trường Harvard lại thích giữ im lặng về cuộc
chiến tranh của Mỹ và đổ mọi vấn đề của Việt Nam cho người Pháp.
Sự tàn phá của người Mỹ không phải chỉ ở khía cạnh vật
chất mà còn cả về mặt văn hoá, đặc biệt là ở miền nam, nơi đã chịu đựng
sự chiếm đóng của quân đội Mỹ trong suốt 11 năm. Tiền bạc của họ đã
nuôi sống các tệ nạn như mại dâm, nghiện hút, và tham nhũng với qui mô
khủng khiếp. Giống như vũ khí của Mỹ mang lại sự tàn bạo và chết chóc,
tiền bạc của Mỹ đã ăn dần ăn mòn các cơ cấu văn hoá và xã hội Việt Nam
ở phía nam vĩ tuyến 17.
Có cả những ảnh hưởng về mặt văn hóa khác,
tuy không hiện rõ bằng. Một ví dụ là nhiều năm trước đây, ông Hoàng Tuỵ
đã nói với tôi một nhận xét rằng trong một cuộc chiến sinh tồn, truyền
thống mỹ thuật và làng nghề thủ công cũng dần dần bị phai nhạt. Và nếu
không có sự nỗ lực phi thường của các nhà trí thức và các nhà lãnh đạo
Việt Nam - những người trong suốt thời gian Hà Nội bị ném bom vẫn tổ
chức giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học ở trong các khu rừng cách
xa Thủ đô - thì đời sống khoa học cũng sẽ bị xoá sổ trong thời gian
chiến tranh với Mỹ.
3. Đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa
Hầu hết các nhà toán học và khoa học hàng đầu của Việt
Nam ở thế hệ của Hoàng Tụy và thế hệ của tôi đều được đào tạo ở các
nước xã hội chủ nghĩa. Theo ấn tượng của tôi thì nhìn chung họ được đào
tạo rất tốt. Tôi biết rằng các sinh viên Việt Nam ở Mátxcơva có tiếng
là làm việc rất chăm chỉ và thông minh, và họ thường được làm việc dưới
sự hướng dẫn của các nhà khoa học hàng đầu của Liên xô.
Báo cáo Vallely gợi ý rằng các nhà khoa học và các quan
chức của Việt Nam, những người đã được đào tạo ở các nước xã hội chủ
nghĩa, có năng lực kém hơn so với những người được đào tạo ở phương
Tây, và cho rằng chính họ đã ngăn cản sự tiến bộ. Khi đưa ra những cáo
buộc này, các tác giả dường như đang muốn tạo nên một cuộc xung đột
giữa các nhóm khác nhau ở Việt Nam. Dù cho có các ý kiến khác nhau về
khả năng của người Việt được đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa hay
không xã hội chủ nghĩa - còn theo quan điểm của tôi thì ở cả hai nhóm
này đều có những người có năng lực cao – thì việc tạo nên bất đồng giữa
một nhóm người Việt Nam này với một nhóm khác cũng không đem lại lợi
ích gì.
Nhìn vào những nhận xét mang tính miệt thị
của báo cáo Vallely về những người Việt Nam được đào tạo bậc cao tại
các nước xã hội chủ nghĩa, một câu hỏi tự nhiên được đặt ra là: Các tác
giả của bản báo cáo này có những phẩm chất, trình độ nào để có thể cho
phép họ đưa ra những phán xét tiêu cực như vậy?
Theo trang web của viện Ash thì trước khi trở thành
giám đốc của chương trình Việt Nam, ông Vallely đã từng là thành viên
của Hạ viện bang Massachusettes (tương tự như một quan chức cỡ nhỏ ở
một tỉnh của Việt Nam). Ngoài ra, ông ta có bằng M.P.A, có nghĩa là
"Thạc sĩ về Hành chính Công cộng." Đây là một bằng cấp thông thường
ở Mỹ dành cho những người muốn làm việc tại các khu vực hành chính cấp
địa phương hoặc ở tiểu bang. Nó không có ý nghĩa như trình độ Thạc sĩ
về một lĩnh vực khoa học, và tất nhiên là còn kém xa một Tiến sĩ
(Ph.D.) hay là bằng Candidate của Liên Xô.
Trợ lý của Vallely, ông Ben Wilkinson, còn
có ít bằng cấp hơn nữa. Theo trang web của viện Ash thì trình độ của
ông ta là đã tham gia các khoá học về lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam hồi
ông ta là sinh viên, và ông ta đã "học luật tại Trường Luật Harvard"
(cách viết này có nghĩa là ông ta đã không hoàn thành khoá học và có
bằng cấp gì về luật).
Nếu một người nào đó có một tấm bằng Thạc sĩ
Hành chính Công cộng, hoặc đã từng theo các khoá học đại học về lịch sử
và ngôn ngữ Việt Nam thì liệu anh ta có đủ trình độ để chỉ bảo cho
chính phủ Việt Nam nên làm gì hay không? Liệu anh ta có đủ tư cách để
đưa ra các phán xét tiêu cực về các nhà khoa học và các quan chức đã
từng theo học ở các nước xã hội chủ nghĩa hay không?
Liệu một người với trình độ như ông Vallely
hoặc ông Wilkinson có thể được chính phủ Hoa Kỳ mời làm chuyên gia tư
vấn về cải cách giáo dục bậc cao hay không? Tất nhiên là không. Người
ta sẽ coi họ là hoàn toàn không đủ trình độ, và sẽ không có ai muốn
nghe ý kiến của họ về vấn đề này. Thế mà Viện Ash của Trường Havard và
chương trình học giả Fulbright của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lại cử họ đến
Việt Nam như là các "chuyên gia" về đào tạo bậc cao. Đây là một ví dụ
của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Giọng điệu của bản báo cáo Vallely mang tính
chất trịnh thượng, ra vẻ quan trọng và dạy bảo. Các tác giả đã tự tin
thái quá một cách sai lầm vào kiến thức cao cả của mình và tỏ ra chế
nhạo, coi thường các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học cũng như các
nhà lãnh đạo của Việt Nam. Dù cho Mc George Bundy và Samuel Huntington
đã chết thì thói kiêu căng kiểu thực dân mới mà họ đã từng thể hiện vẫn
tồn tại và hiện hữu ở các tổ chức có liên quan tới Harvard như cái viện
Ash này.
4. Tuyên truyền chính trị
Số đông các sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học từ
khắp nơi trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, đến Mỹ để tham gia vào
các chương trình Ph.D. trong các ngành khoa học tại các trường đại học
nghiên cứu lớn. Không nên nhầm lẫn những chương trình này với một loại
hình đào tạo khác thường được các tổ chức kiểu như Viện Ash thực hiện.
Các chương trình của các tổ chức đó thường được tiến hành trong khoảng
thời gian từ vài tháng cho tới hai năm, không phải tập trung vào một
chủ đề khoa học nào, mà là “khoa học chính trị” hay “chính sách công
cộng.” (từ “khoa học” trong các cụm từ như “khoa học chính trị” hay
“khoa học xã hội” tất nhiên chẳng có nghĩa là chúng là các ngành khoa
học.) Các sinh viên hay tu nghiệp sinh[9] (như thỉnh thoảng họ vẫn được
gọi) học về những chủ thuyết chính trị và các học thuyết kinh tế nổi
bật ở Mỹ, và họ được dạy rằng cách tiếp cận của người Mỹ trong việc
giải quyết các vấn đề là tốt nhất và chúng nên được du nhập vào các
quốc gia khác.
Báo cáo Vallely cho rằng ở Việt Nam “25%
chương trình giảng dạy đại học được dành cho các môn học mang nặng tính
tuyên truyền chính trị.” Tuy nhiên, khi nhìn vào các chương trình về
chính sách tại Viện Ash ở Harvard của ông Vallely, người ta dễ có cảm
giác rằng việc truyền bá chính trị chiếm tới 100%. (Có lẽ 100% thì hơi
quá, nhưng chắc chắn rằng tỷ lệ các môn tuyên truyền về chính trị và tư
tưởng vượt xa con số 25%.) Sự khác biệt giữa hai dạng tuyên truyền
chính trị tại các trường đại học ở Việt Nam và tại viện Ash là ở chỗ
một nơi tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội còn nơi kia là chống chủ nghĩa
xã hội. Ngay cả khi nhận định trong báo cáo Vallely rằng sinh viên đại
học ở Việt Nam đã lãng phí 25% thời gian của mình là đúng, thì nó vẫn
còn tốt hơn là lãng phí hầu như 100% thời gian.
5. Đổi mới
Vào năm 1985 Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt
chính sách cải tổ nền kinh tế và điều đó dẫn tới việc nền kinh tế đã
phát triển nhanh chóng trong nhiều năm, chất lượng cuộc sống của mọi
người được nâng cao, và khu vực tư nhân phát triển rất mạnh. Trong cuốn
sách Random Curves[10] của mình, tôi đã cố gắng đưa ra một cách nhìn
cân bằng về ảnh hưởng của đổi mới.
…Những thay đổi này có ảnh hưởng cả tốt lẫn xấu. Hầu
hết người Việt Nam có một cuộc sống vật chất tốt hơn … Mặt khác, sự mất
cân đối về kinh tế trở nên rõ rệt hơn trước, và tầng lớp người “vô-sản”
đã xuất hiện. Hơn nữa, trong nhiều mặt thì ở Việt Nam khu vực kinh tế
tư nhân thậm chí còn chịu thuế và những ràng buộc ít hơn so với ở Mỹ
và các nước tư bản khác.
Trong một lần thảo luận vấn đề này với Bà Nguyễn Thị
Bình – khi đó là Phó Chủ tịch nước- tôi có nhận xét rằng trong vấn đề
này thì Việt Nam còn kém xã hội chủ nghĩa hơn nước Mỹ. Trong cuốn sách
của mình, tôi đã đưa ra một ví dụ để minh họa cho những cách hành xử
tồi tệ của các công ty tư nhân ở Việt Nam, điều không bao giờ được chấp
nhận ở hầu hết các nước tư bản tiên tiến:
Ví dụ, vào năm 2003 chúng tôi để ý thấy có một tờ quảng
cáo tuyển nhân viên của khách sạn Caravelle, đăng trên tờ báo tiếng Anh
Vietnam News. Mẩu quảng cáo này tuyển nhân viên nam giới cho các công
việc kỹ thuật và tuyển nhân viên nữ cho các công việc phục vụ phòng.
Những quảng cáo có tính chất phân biệt nam nữ như vậy là không hợp pháp
ở Mỹ và ở hầu hết các nước Châu Âu.
Hơn nữa, đã có nhiều trường hợp những ông
chủ là người Mỹ, người Hàn Quốc hay Nhật Bản quấy rối tình dục công
nhân nữ Việt Nam, những người phụ nữ này hoàn toàn bất lực và người ta
cũng chẳng có hành động gì để xử phạt những kẻ quấy rối tình dục đó.
Cũng giống như ở các nước khác, chính sách
mở cửa có mặt trái của nó. Những người đã từng nghiên cứu về các mối
quan hệ phức tạp giữa các nước giầu có và các nước Thế giới Thứ Ba
thường hay nói về vấn đề “dumping”[11]. Điều này có nghĩa là nhiều công
ty đa quốc gia thường xuyên bán các sản phẩm chất lượng thấp hoặc có
lỗi cho các nước Thế giới Thứ Ba - ví dụ, các loại thuốc quá hạn sử
dụng hoặc không được kiểm nghiệm và vì vậy không thể bán được ở Mỹ. Nạn
dumping cũng được mở rộng tới cả lĩnh vực văn hóa. Ví dụ như, các phim
Mỹ thường được chiếu ở Việt Nam (và làm cản trở nền công nghiệp điện
ảnh Việt Nam) thường là những bộ phim kém chất lượng nhất của Hollywood
- những bộ phim Mỹ có chất lượng tốt hiếm khi được nhập về.
Tương tự như vậy, hầu hết các trường của Mỹ
đặt chi nhánh ở Việt Nam đều là những trường có chất lượng thấp. Ví dụ,
một bài báo[12] mà tôi đọc được trên một tờ báo của Mỹ nói tới việc
Trường cao đẳng Cộng đồng Houston[13] có một chi nhánh rất phát đạt ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Không một người nào ở Mỹ coi Trường Cao đẳng
Cộng đồng Houston là một trường có địa vị học thuật nghiêm túc. Vì vậy,
điều này cũng có thể được xem là một hình thức dumping. Và cũng có thể
nói rằng việc gửi những người không có khả năng sang Việt Nam làm
"chuyên gia" về giáo dục bậc cao cũng là một dạng dumping.
Một mặt trái khác của chính sách mở cửa là
sự gia tăng của chủ nghĩa thực dụng trong thế hệ trẻ - một hiện tượng
cũng thấy ở Trung Quốc, Ấn Độ và một vài nơi khác. Tôi đã viết trong
cuốn Random Curves, Những người làm khoa học ở Việt Nam thường than
phiền rằng ngày càng ít các bạn trẻ muốn theo đuổi các lĩnh vực khoa
học cơ bản. Đã có hiện tượng "bạc tóc" ở các cơ quan khoa học ... Người
Việt Nam có truyền thống coi trọng việc học hành... Nhưng với sự tác
động mạnh mẽ của các hệ thống giá trị được du nhập từ các nước tư bản,
những công việc lao động trí óc không cạnh tranh nổi với các ngành nghề
khác có lợi hơn.
Thậm chí cả các bạn trẻ đã rất thành công trong các
cuộc thi Ôlimpíc Toán học Thế giới cũng thường không chọn nghề làm toán
hoặc các lĩnh vực hoạt động sáng tạo khác của khoa học và công nghệ.
Mặc dù việc đấu tranh chống lại những ảnh
hưởng tiêu cực tới giới trẻ là khó khăn, nhưng cũng không phải là hoàn
toàn bó tay. Đã có nhiều nỗ lực thành công ở nhiều nơi trên thế giới. Ở
Ấn Độ, một số nhà toán học hàng đầu đã tham gia giảng dạy trong các
chương trình mùa hè về toán học được chính phủ tài trợ dành cho các học
sinh cả nam và nữ đã đạt được kết quả tốt trong các kỳ thi Ôlimpíc. Mục
đích của các chương trình này không phải chỉ để dạy toán, mà còn nhằm
chuyển tải vẻ đẹp và sự hấp dẫn của việc nghiên cứu toán học. Ở Mỹ,
Hiệp hội các nhà Toán học Nữ tổ chức "ngày Kovalevskaia" tại các trường
cấp hai ở nhiều nơi trên nước Mỹ. Tại những buổi gặp gỡ này, các nhà
nghiên cứu nữ nói chuyện với các em gái về rất nhiều công việc có sử
dụng đến toán học. Một sáng kiến khác tỏ ra rất thành công là một
chương trình được chính phủ tài trợ mang tên "Kinh nghiệm nghiên cứu ở
bậc đại học"[14] (REU), được tổ chức vào mùa hè tại nhiều trường đại
học, trong đó có trường của tôi. Các giáo sư phụ trách REU cố gắng đem
lại cho các sinh viên những cảm giác ban đầu của công việc nghiên cứu
toán học.
6. Giáo dục bậc cao ở Mỹ
6.1. Sự xuống cấp về kiến thức cơ bản của sinh viên
So với hầu hết các trường ở Mỹ, trường của tôi thu hút
được nhiều sinh viên khá. Đại học Washington (U.W.) là trường đại học
hàng đầu ở vùng tây bắc, và hầu hết sinh viên học toán và khoa học tại
U.W. đều nằm trong nhóm 20% dẫn đầu ở trung học. Vì sự “lạm phát điểm
số”[15] và sự “ngu hoá”[16] , nhiều người trong số họ thường quen với
việc có điểm số cao mà lại chỉ tốn rất ít công sức.
Trong thời gian từ 20 hoặc 25 năm trở lại
đây, mức độ chuẩn bị của sinh viên khi nhập trường dần dần đi xuống.
Lần đầu tiên tôi nhận ra điều này là khi một sinh viên khi học môn học
giải tích dành cho năm thứ nhất của tôi đã than phiền với bộ phận hành
chính về tôi. Cô ta nói rằng tôi dạy quá khó, và để chứng minh, cô ta
chỉ ra rằng để trả lời cho một câu hỏi trong một bài kiểm tra của tôi,
các sinh viên phải nhớ được công thức tính diện tích hình tròn.
Một vài năm trước, một đồng nghiệp của tôi,
Giáo sư chuyên ngành khí tượng học Cliff Mass đã hết sức thất vọng khi
thấy sinh viên của mình không thể hiểu được những kiến thức toán học mà
ông ta sử dụng trong môn học nhập môn của mình. Để tìm hiểu những lỗ
hổng trong kiến thức chuẩn bị về toán của họ, ông đã cho họ một bài
"kiểm tra chất lượng" về toán cơ bản. Sau đây là ba câu hỏi điển hình
trong bài kiểm tra này cùng với tỷ lệ sinh viên trả lời sai:
(1) Chia 25×108 cho 5×10-5. (63% đã bỏ câu này.)
(2) Diện tích của hình tròn bán kính r là bao nhiêu? (31% bỏ câu này.)
(3) Cho y= x/(1-x), hãy tìm x theo biến y. (86% bỏ câu này.)
Để có thể so sánh, sẽ rất lý thú nếu như biết được có
bao nhiêu phần trăm sinh viên Việt Nam sẽ không thể trả lời được các
câu hỏi trên?
6.2. Chi phí cao và tệ quan liêu
Chi phí cho giáo dục bậc cao ở Mỹ còn tăng nhanh hơn cả
lạm phát và nhanh hơn cả mức thu nhập gia đình. Tại nhiều trường đại
học tư hiện nay, tính trung bình mỗi năm sinh viên phải chi trả cho
các khoản: học phí, lệ phí, tiền thuê nhà, tiền ăn là vào khoảng 50.000
USD. (Tại các trường công lập thì chi phí vào khoảng một nửa số đó.) Đã
có nhiều tranh luận về vấn đề này trên báo chí Mỹ.
Một lý do của chi phí cao là các trường đại
học đó cung cấp cho sinh viên nhiều dịch vụ hơn trước đây. Ví dụ, so
với các sinh viên ở các thế hệ trước, sinh viên thời nay dường như cần
sự giúp đỡ về sức khoẻ và tâm lý nhiều hơn. Nhiều người trong số họ lam
dụng các loại thuốc gây nghiện, các hoá chất chống dị ứng, thuốc tránh
thai, và đặc biệt là các dược phẩm điều trị tâm lý như các loại thuốc
giảm đau và thuốc giảm cường độ hoạt động[17] - và những cuộc rượu chè
say sưa (một dạng của chứng nghiện rượu) cũng là một vấn đề lớn.
Một lý do khác nữa là sự nở rộ như bệnh ung
thư của hệ thống quan liêu, điều mà tôi cũng đã đề cập trong bài bình
luận của tôi về bản báo cáo của Viện Hàn Lâm Quốc gia Hoa Kỳ. Đội ngũ
cán bộ hành chính trong các trường đại học thường đông đảo như một
khoa, và có nhiều toà nhà chỉ dành cho các phòng hành chính. Các cán bộ
hành chính này mất quá nhiều thời gian cho các cuộc họp vô bổ và các
hội nghị đắt đỏ không cần thiết, và họ xuất bản ra một khối lượng khổng
lồ những ấn phẩm không có giá trị mà hầu như chẳng ai thèm đọc.
Do những yếu tố tổng hợp liên quan đến vấn
đề cá nhân, áp lực về tài chính, và sự chuẩn bị nghèo nàn về toán học
và các lĩnh vực khác, hầu như một nửa số sinh viên vào các trường có
chương trình đào tạo là 4 năm đã không thể hoàn thành khoá học của mình
trong vòng 4 năm, 5 năm và thậm chí là 6 năm.[18] Điều này khiến cho
nhiều nhà bình luận của Mỹ nói rằng giáo dục bậc cao ở Mỹ là rất không
hiệu quả và quá đắt đỏ.
6.3. Làm thế nào mà nước Mỹ vẫn tạo ra được những sản phẩm khoa học tốt ?
Khi các nhà khoa học và toán học đến thăm và giảng dạy
tại Mỹ trong vòng một năm, họ thường bị sốc vì trình độ rất thấp của
sinh viên ở đây. Họ thường tự hỏi vì sao mà một nước có nền giáo dục
yếu kém như thế này lại có thể vẫn duy trì một nền khoa học hàng đầu
thế giới? Nước Mỹ luôn nắm giữ những kỹ thuật hiện đại nhất trong hầu
hết các ngành kỹ thuật cao, vẫn có những chương trình sau đại học về
các ngành khoa học tốt nhất thế giới, và vẫn đạt được rất nhiều giải
Nobel. Thoạt nhìn, điều này đúng là một nghịch lý.
Có hai lý do giải thích vì sao nước Mỹ vẫn sản sinh ra các nhà khoa học hàng đầu thế giới:
· Nước Mỹ là một quốc gia rộng lớn và giàu có, với
một hệ thống giáo dục hoàn toàn phi tập trung. Sự đa dạng về chất lượng
là rất lớn. Có một thiểu số các trường công lập và trường tư có chất
lượng rất cao. Giả sử rằng 98% người Mỹ được hưởng một nền giáo dục
không đầy đủ trong các ngành khoa học, thì vẫn còn 2% nhận được một nền
giáo dục tầm cỡ thế giới. Con số 2% đó cũng đủ để cung cấp cho đất nước
hàng trăm nghìn kỹ sư và các nhà khoa học.
· Nước Mỹ hưởng lợi rất nhiều từ phong trào nhập
cư. Sự "bòn rút chất xám"[19] từ các quốc gia khác cung cấp đều đặn cho
nước Mỹ một số lượng phong phú các nhà khoa học và kỹ sư. Trong nhiều
ngành khoa học, hơn một nửa các luận án Tiến sĩ chất lượng hàng đầu
được viết bởi các sinh viên sau đại học đã từng học tập tại các trường
bậc thấp hơn ở các quốc gia khác.
Đối với các quốc gia khác, có thể rút ra nhiều bài học
từ thành công và thất bại của giáo dục khoa học ở Mỹ. Tuy nhiên, không
một người có tri thức nào lại có thể khẳng định rằng nhìn chung hệ
thống đào tạo trung học và đại học của Mỹ là một mô hình tốt và đáng để
các quốc gia khác noi theo.
7. Về ý tưởng một trường đại học mới do người Mỹ dựng lên
Báo cáo Vallely có kèm theo một phụ lục bài viết của
Giáo sư Hoàng Tụy, trong đó ông ủng hộ ý tưởng xây dựng một trường đại
học mới, do nhà nước tài trợ, dựa trên mô hình của Mỹ, và do người Mỹ
thiết kế.
Tôi đặc biệt ngưỡng mộ và kính trọng Hoàng Tụy (và đã
viết về điều này trong Random Curves), nhưng tôi không phải là đồng ý
với ông về mọi điểm. Chẳng hạn như khi tôi phỏng vấn ông khoảng 20 năm
trước cho tờ The Mathematical Intelligencer, ông và một vài nhà toán
học có tiếng khác có vẻ rất thích thú với một trường đại học mới là đại
học Thăng Long, và cho rằng những đại học tư như thế sẽ trở thành kiểu
mẫu cho giáo dục bậc cao ở Việt Nam. Tôi không bao giờ tin điều này sẽ
xảy ra. Tôi biết nhiều trường đại học tư ở các nước thế giới thứ ba
khác, và tôi không tin rằng việc “tư nhân hóa” như thế sẽ là một lời
giải cho những khó khăn của Việt Nam (và các nước khác) trong giáo dục
bậc cao. Bây giờ thì rõ ràng là tôi đã đúng về điểm này. Các “đại học”
tư, kể cả Thăng Long, không thực sự là các đại học mà chỉ là các trường
dạy nghề với một vài hình thức giáo dục trên bậc phổ thông.[20]
Cũng tương tự như thế, tôi cho rằng Hoàng Tụy và nhiều
người khác đã sai lầm khi cho rằng một trường đại học được xây dựng
hoàn toàn mới theo thiết kế của một nhóm các trường đại học của Mỹ sẽ
là một mô hình thành công trong giáo dục bậc cao ở Việt Nam. Có nước
nào trên thế giới mà điều này đã xảy ra không? Có một vài nước, chủ yếu
là ở vùng Trung Đông,[21] là có các trường đại học do người Mỹ xây
dựng, nhưng theo tôi được biết thì những trường này chỉ đào tạo các con
em tầng lớp thượng lưu và không có nhiều ảnh hưởng đến việc nâng cáo
chất lượng giáo dục ở các quốc gia đó.
Một điểm quan trọng trong bản kiến nghị về một trường
đại học mới kiểu Mỹ ở Việt Nam là nó sẽ không lấy kinh phí từ nguồn của
Mỹ. Như thế, nó sẽ là một khoản chi rất lớn đối với chính phủ Việt Nam.
Như trong bản báo cáo Vallely đã viết: “Nói một cách thẳng thừng là
Việt Nam phải chấp nhận chi tiền.” Và mỗi đồng đô la mà Việt Nam trả
cho một hiệp hội của Mỹ có nghĩa là nhà nước sẽ có ít tiền hơn để cải
tổ các trường đại học hiện có.
Nhìn sang các nước khác để học tập các ý tưởng để cải
cách là một việc làm hoàn toàn xác đáng. Có một số điều ở nước Mỹ được
thực hiện tốt - như tôi đã từng đề cập đến trong những lần sang thăm
Việt Nam. Ví dụ, ở Mỹ thì việc giảng dạy và nghiên cứu được gắn kết với
nhau tốt hơn so với đa số các nước khác. (Tôi đã trình bày về điều này
từ năm 1983 trong một bản báo cáo mà tôi đã viết cho các nhà lãnh đạo
Việt Nam về giáo dục và khoa học.) Nhưng Việt Nam không nên tôn sùng
nước Mỹ (hay bất cứ quốc gia nào khác). Cần phải hiểu rằng có rất nhiều
thất bại trong hệ thống Mỹ. Và một số nước khác, như Ấn Độ, Trung Quốc,
và Nhật Bản - lại là những nguồn ý tưởng và cảm hứng hay hơn nhiều
trong một số khía cạnh của giáo dục.
8. Thị trường việc làm
Bản báo cáo Vallely khẳng định rằng “có đến khoảng 50%
sinh viên tốt nghiệp không thể tìm được việc làm trong lĩnh vực chuyên
môn của mình,” và dùng điều này như là một bằng chứng về sự kém hiệu
quả của chương trình đào tạo ở Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là
kết luận đứng đắn rút ra được từ con số thống kê này. Ở Việt Nam, cũng
như ở nhiều nước Thế giới Thứ Ba khác, vấn đề là ở chỗ khu vực tư nhân
không đạt được đến mức độ có khả năng thu nhận một số lượng lớn các nhà
khoa học và kỹ sư tài năng (và ở khu vực nhà nước thì điều này lại bị
giới hạn bởi những lý do về tài chính).
Từ nhiều năm nay tôi thường xuyên đến Peru, một quốc
gia cũng không có khả năng cung cấp công ăn việc làm cho các sinh viên
tốt nghiệp đúng với chuyên môn của họ. Một khách du lịch ở Peru rất có
thể sẽ gặp một người lái taxi hay một hướng dẫn viên du lịch rất có
học! Khách du lịch tất nhiên sẽ thích điều này, nhưng đây lại là một bi
kịch đối với quốc gia đó. Lý do vì sao rất nhiều người Peru có bằng cấp
cao nhưng lại làm các công việc thậm chí không cần đến trình độ đại học
không phải là do các trường đại học của Peru quá kém cỏi trong công tác
đào tào họ, mà là vì nền kinh tế chưa đủ sức để có thể thu nhận họ.
Peru, giống như Việt Nam, chưa có một khu vực tư nhân sống động. Và ở
Peru, cũng như ở nhiều quốc gia khác, chính phủ đang phải chịu một sức
ép rất lớn phải giảm bớt khu vực nhà nước, nơi phần lớn những người làm
việc trong các ngành khoa học ăn lương (sự cắt giảm trong khu vực nhà
nước thường là một trong những điều kiện mà Ngân Hàng Thế Giới hay Quĩ
Tiền Tệ Quốc Tế yêu cầu).
Ngay cả khi một quốc gia có một khu vực kinh tế tư nhân
giàu sáng tạo với rất nhiều việc làm dành cho các nhà khoa học và kỹ
sư, cũng cần phải có những cố gắng đặc biệt để đảm bảo cho các sinh
viên tốt nghiệp đại học có một bước chuyển tiếp trơn tru ra thị trường
nhân lực. Một trường đại học đã có rất nhiều thành công trong việc này
là đại học Waterloo (thường được gọi là “MIT của Canada”), nơi mà khái
niệm “thực tập sinh”[22] được đưa ra lần đầu tiên từ gần nửa thế kỷ
trước. Các sinh viên Waterloo mất 5 năm chứ không phải 4 năm đại học để
tốt nghiệp vì họ dành một phần không nhỏ thời gian trong các năm đó để
làm các công việc tạm thời, thường là các khu vực Nghiên cứu và Phát
triển (R&D) tại các công ty công nghệ cao. Tất nhiên là một chương
trình thực tập như vậy chỉ có thể thực hiện được vì khu vực Toronto,
nơi đại học Waterloo đặt địa điểm, có rất nhiều công ty như vậy.
8.1. Tính chất của khu vực tư nhân
Bản báo cáo Vallely sử dụng khái niệm “chỉ số sáng tạo”
để chỉ bảng các bằng sáng chế được cấp năm 2006, và nó sử dụng việc
thiếu vắng các bằng sáng chế được cấp cho Việt Nam như là một bằng
chứng cho “chất lượng kém cỏi” của giáo dục bậc cao. Điều này là một sự
nhầm lẫn tai hại..
Mục đính của bằng sáng chế là bảo vệ sự
sáng tạo trong phu vực tư nhân, nói rõ hơn, là để đảm bảo cho các công
ty thu được lợi nhuận từ những cải tiến mà các nhà nghiên cứu của họ đề
xuất. Thông thường thì nghiên cứu trong khoa học cơ bản và khoa học ứng
dụng tại các trường đại học và tại các viện nghiên cứu của chính phủ
không dẫn đến các bằng sáng chế, dù tính sáng tạo của nó ở mức độ nào
chăng nữa.[23] Do đó, việc thiếu vắng những bằng sáng chế ở Việt Nam là
một hệ quả, không phải của một sự thất bại trong hệ thống đại học, mà
là chất lượng thấp của khu vực tư nhân.
Như đã chỉ ra trong báo cáo Vallely, Hàn Quốc có rất
nhiều bằng sáng chế. Lý do là vì nền công nghiệp Hàn Quốc đã phát triển
ở mức độ cao, với nhiều tên tuổi lớn trên thế giới cỏ khả năng cạnh
tranh trong các ngành công nghiệp điện tử, xe hơi - và những công ty
đặt tại quốc gia đó có mạng lưới R&D dày đặc.
Ngược lại, Việt Nam, cũng như nhiều nước thuộc Thế Giới
Thứ Ba khác, không có một công ty quan trọng nào đi đầu trong các sáng
tạo kỹ thuật. Và các chi nhánh tại Việt Nam của các công ty đa quốc gia
chỉ tham gia vào các lĩnh vực sản xuất, phân phối và các hoạt động liên
quan chứ không phải là phát triển sáng tạo kỹ thuật mới.
8.2. Intel
Trong một mục có tiêu đề là “Mức độ khủng hoảng,” bản
báo cáo Vallely khẳng định rằng kinh nghiệm của Intel trong việc tuyển
người tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy “chất lượng tồi tệ của giáo
dục đại học.” Bản báo cáo cũng dẫn các kết quả của một bài kiểm tra
trắc nghiệm của 2000 sinh viên ở Thành Phố Hồ Chí Minh và dẫn lời một
ai đó tại Intel như sau:
Intel xác nhận rằng đây là
kết quả tồi tệ nhất mà họ đã gặp phải tại tất cả các quốc gia mà họ đã
đầu tư. Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế thường dẫn việc thiếu hụt
công nhân và lực lượng quản lý có trình độ là rào cản lớn đối với sự mở
rộng của họ.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem liệu báo cáo Vallely có
mô tả chính xác những gì mà Intel đã trải qua hay không và đi đến kết
luận thích ứng.
8.2.1. Hoạt động của Intel tại Việt Nam
Trên trang web của mình, Intel công bố rằng các cơ sở
được mở rộng đã được hoạch định trước ở Việt Nam sẽ hoạt động trong bốn
lĩnh vực: sản xuất, kiểm nghiệm, bán hàng và marketing. Một biểu đồ
trong Báo Cáo Trách Nhiệm Công Ty năm 2008 của Intel cho thấy là vào
thời điểm 31 tháng 12 năm 2008, Intel đã có cơ sở hoạt động với trên 50
nhân viên tại mười hai nước Thế Giới Thứ Ba, trong đó có Việt Nam. Theo
biểu đồ này thì Intel có các cơ sở R&D tại bốn nước trong số đó
(Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, và Philippines).
Những công nhân có trình độ cao hoặc kém hơn một chút
tại Việt Nam của Intel sẽ làm việc tại các dây chuyền sản xuất, thực
hiện các giao thức kiểm nghiệm sản phẩm, và cố gắng tăng sức mua các
sản phẩm của Intel trong nước. Ngoài ra, Intel cần nhân công có trình
độ trong các công việc thư ký và quản lý (đôi khi được gọi là “kỹ năng
mềm”) để giải quyết các công việc hành chính và quản lý nhân viên Việt
Nam. Đối với những mục đính như vậy thì chỉ cần một hai năm học tại một
trong những trường dạy nghề tư đang nở rộ tại Thành phố Hồ Chí Minh là
đủ; không có một điều gì trong mô tả công việc đòi hỏi đến bằng đại học
4 năm. Nói riêng, chi nhánh tại Việt Nam của công ty không cần đến các
kỹ sư hay các nhà khoa học sáng tạo vì nó không có R&D.
Trong những lần đầu khi tôi đến thăm Việt Nam vào năm
1978 và những năm 1980, tôi thường cảm thấy hết sức kinh ngạc trước sự
khéo léo của các tài xế và thợ máy Việt Nam, họ có thể sửa chữa và bảo
trì những chiếc xe cũ nát của Mỹ từ thời chiếm đóng. Có vẻ như những kỹ
năng, sự thông minh, và đôi khi là sự sáng tạo thể hiện khi sửa chữa xe
hơi hay tại các cửa hàng sửa chữa xe đạp trong những năm tháng đó vượt
quá những gì mà Intel mong đợi từ những nhân viên Việt Nam của mình.
Những người này chỉ được yêu cầu phải theo đúng những công đoạn thực
hiện mà những nhân viên Mỹ đã vạch ra. Người ta không yêu cầu họ phải
sáng tạo.[24] Vì thế, không thể đưa ra những kết luận hợp logic nào về
chất lượng của các trường đại học đào tạo 4 năm của Việt Nam từ sự
thành công hay thất bại của Intel trong công tác tuyển dụng nhằm thỏa
mãn mục tiêu của họ.
8.2.2. Trả lời của Intel về bản báo cáo Vallely
Được sự giúp đỡ của một người đồng nghiệp, hiện đang là
một nghiên cứu viên có thâm niên trong lĩnh vực mật mã tại Intel, tôi
đã tiếp cận được với một số người tại Intel có hiểu biết về hoạt động
của công ty tại Việt Nam. Tôi đã đề nghị họ đọc những phát biểu về
Intel trong bản báo cáo Vallely và trả lời. Dưới đây là phát biểu của
Intel:[25]
Mục tiêu của Intel là phối hợp với
chính phủ Việt Nam, các trường đại học, và ngành kinh doanh khác để
phát triển một đội ngũ nhân công kỹ thuật cao có chất lượng quốc tế.
Đây không phải là điều mà chúng tôi có thể hay muốn làm một cách đơn
độc, lại càng không phải là một việc có thể xảy ra ngay lập tức. Nó cần
phải có được sự hỗ trợ và đóng góp của tất cả các bên có liên quan. Từ
khi chúng tôi bắt đầu hoạt động tích cực ở Việt Nam, chúng tôi đã có
được một định hướng tích cực.
Intel muốn xây dựng một nhà máy kiểm
nghiệm dây chuyền bán dẫn lớn nhất thế giới tại Việt Nam. Trong thời
gian gần đây, chúng tôi đã có được một số thành công trong việc tuyển
dụng sịnh viên kỹ thuật. Từ khi chúng tôi bắt đầu đánh giá khả năng của
sinh viên, họ đã chứng tỏ được khả năng tiếp thu tiếng Anh tốt hơn, và
những kỹ năng mềm của họ đã có tiến bộ. Khi Intel thông báo các yêu cầu
của mình, sinh viên và các trường đại học đã có những đáp ứng có tính
xây dựng. Chúng tôi còn cả một chặng đường, nhưng những tiến bộ gần đây
là đáng kể.
Khi tiếp tục đi trên con đường này cùng
với các thành viên đối tác, và khi các trường đại học và chính phủ và
giới kinh doanh tập trung vào các ứng dụng cụ thể của kỹ năng kỹ thuật,
chúng tôi tin rằng lực lượng nhân công kỹ thuật cao của Việt Nam sẽ có
sức cạnh tranh ở mức độ toàn cầu.
Phát biểu của Intel không ủng hộ cho cái gọi là các
trường đại học Việt Nam đang khủng hoảng, hay cần phải có những thay
đổi mạnh mẽ trong việc quản lý. Báo cáo Vallely rõ ràng là đã xuyên tạc
và bóp méo những kinh nghiệm của Intel để phục vụ cho mục tiêu chính
trị của mình.
9. Học tập ở nước ngoài
Bản báo cáo Vallely khẳng định rằng do chất lượng học
tập ở bậc đại học kém nên “Các sinh viên Việt Nam thường không thể cạnh
tranh [với] các sinh viên đến từ Ấn Độ và Trung Quốc … khi đăng ký vào
các chương trình cao học có chất lượng cao tại Mỹ và Châu Âu.” Nhưng nó
không đưa ra được một bằng chứng nào để minh chứng cho khẳng định nói
rằng các sinh viên Việt Nam không đủ sức cạnh tranh.[26]
Rất có thể là tại một vài trường đại học của Trung Quốc
và Ấn Độ, các ứng viên của họ thành công hơn so với các ứng viên đến từ
các nước thuộc Thế Giới Thứ Ba, bao gồm cả Việt Nam. Cả Trung Quốc và
Ấn Độ đều có nhiều năm kinh nghiệm hơn trong việc gửi sinh viên của họ
ra nước ngoài để tiếp tục học tập, và thường thì số ứng viên từ hai
nước này cũng cao hơn rất nhiều. (Cũng cần nhắc lại rằng Trung Quốc và
Ấn Độ chiếm khoảng 37% dân số thế giới; còn Việt Nam chỉ chiếm khoảng
1.28%.)
Trong trường hợp Việt Nam, có một hiện tượng đặc biệt
có thể giúp giải thích phần nào cho sự ít ỏi của ứng viên so với một
vài nước khác, tương tự như Việt Nam, có truyền thống đòi hỏi cao trong
giáo dục toán học. Nhiều chương trình Ph.D. toán yêu cầu phải có điểm
TOEFL rất cao. Lý do là vì tại các trường đại học của Mỹ, nguồn tài
chính chủ yếu cho việc học tập sau đại học là làm trợ giảng cho các môn
học nhập môn - một công việc đòi hỏi kiến thức tiếng Anh giao tiếp rất
vững vàng.
Thường thì các sinh viên từ Hà Nội có trình độ toán cao
hơn, nhưng lại không có điểm TOEFL cao, trong khi đó thì đối với các
sinh viên từ phía nam, điều ngược lại xảy ra. Tất nhiên là có nhiều
ngoại lệ đối với khẳng định trên, nhưng nói chung thì khó tìm được một
ứng viên Việt Nam dẫn đầu cả về toán học và tiếng Anh.
Theo như tôi biết thì Việt Nam là nước duy nhất trên
thế giới mà ở đó, nơi đào tạo khoa học tốt nhất và nơi giảng dạy
tiếng Anh tốt nhất lại gần như hoàn toàn khác nhau. Ở Trung Quốc chẳng
hạn, thì những nơi này là một. Trong trường hợp của Ấn Độ, vấn đề này
không tồn tại vì tiếng Anh là ngôn ngữ của tầng lớp cao, và tiếng Anh
được dùng trong giảng dạy tại tất cả các trường đại học.
10. Một vài khuyến nghị
Nếu như tôi được yêu cầu đóng góp một số lời khuyên cho
chính phủ Việt Nam để nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao, thì chúng
sẽ khác hẳn những gì mà Viện Ash hay Viện Hàn Lâm Quốc Gia Hoa Kỳ đã
đưa ra. Những khuyến nghị của tôi là như sau:
1. Tăng lương cho các giảng viên, giáo sư, và các nghiên cứu viên để có thể tiếp cận được với mức lương ở khu vực tư nhân.
2. Cấp học bổng cho sinh viên ở bậc cao học (Master) trong các ngành toán hoc và khoa học.
3. Cấp kinh phí cho các chương trình mùa hè dành cho
các sinh viên tài năng (ví dụ như những sinh viên có kết quả tốt trong
các kỳ thi Olimpic toán).
4. Cấp kinh phí để xây dựng các chương trình đặc biệt
dành cho nữ sinh, đặc biệt là tại các trường trung học và đại học, để
khuyến khích nữ giới lựa chọn nghề nghiệp trong lĩnh vực khoa học và kỹ
thuật. (Quỹ Kovalevskaia dành những phần thưởng cho các nhà khoa học nữ
có trình độ cao, nhưng lại không có một chương trình tương tự như vậy
dành cho nữ giới ở trình độ thấp hơn).
5. Cấp kinh phí để xây dựng các chương trình đặc biệt
dành cho các dân tộc thiểu số, để họ có thể tham gia trong lĩnh vực
khoa học và kỹ thuật. Cả học sinh nữ lẫn các học sinh người dân tộc
thiểu số đều cần được khuyến khích tham gia và các hoạt động như các kỳ
thi Olimpic toán. (Vào năm 2007, Quỹ Kovalevskaia đã cấp kinh phí cho
một cậu bé người dân tộc miền núi thiểu số ở Peru tham gia vào cuộc thi
IMO tại Hà Nội, và cậu đã dành được huy chương bạc.)
6. Cố gắng vận động, gây ảnh hưởng đối với các công ty
kỹ thuật cao đa quốc gia để xây dựng các cơ sở nghiên cứu và phát triển
(không chỉ có các công việc kinh doanh, marketing, kiểm nghiệm và sản
xuất) tại Việt Nam, để từ đó có thêm nhiều công việc đòi hỏi trình độ
cao trong các khu vực tư nhân, tạo thêm cơ hội cho sự sáng tạo của các
nhà khoa học trẻ Việt Nam. Hiện tại thì gần như tất cả các nghiên cứu
khoa học đều chỉ do nhà nước hỗ trợ chứ không có sự tham gia của khu
vực tư nhân. Nếu như Intel có thể xây dựng các cơ sở R&D tại
Malaysia và Phillippines thì tại sao nó không thể làm như vậy tại Việt
Nam?
7. Đưa ra một loại thuế mới đối với các công ty ở khu
vực tư nhân - kể cả với các công ty đa quốc gia - để chỉ sử dụng vào
các hoạt động của chính phủ nhằm hỗ trợ giáo dục và nghiên cứu khoa
học. [27]
8. Đừng phung phí tiền của chính phủ Việt Nam bằng
cách chi trả cho các cái gọi là “chuyên gia” Hoa Kỳ, hay chi trả cho
các trường đại học của Mỹ để họ dựng lên một đại học ở Việt Nam.
Mục đính của các khuyến nghị 7 và 8 là để cho chính phủ
Việt Nam có thêm kinh phí từ các khuyến nghị 1, 2, 3, 4, 5. Khác với
bản báo cáo Vallely, cho rằng không cần thiết phải tăng thêm kinh phí
tài trợ cho giáo dục bậc cao ở Việt Nam, tôi cho rằng một yếu tố quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao chắc chắn PHẢI LÀ
tài chính.
11. Kết luận
Một vài nhà bình luận Việt Nam mô tả tình trạng hiện
nay bằng các ngôn từ của ngày tận thế, và tuyên bố rằng các vấn đề của
giáo dục bậc cao đã trở nên trầm trọng đến mức cần phải có sự can thiệp
từ phía bên ngoài - bởi những người nước ngoài - mới có thể dẫn đến cải
cách. Một số thậm chí còn tin tưởng rằng vấn đề này chỉ có thể được
giải quyết nếu như toàn bộ hệ thống kinh tế và chính trị được thay đổi
- chắc với ý là bằng một mô hình nào đó theo mô hình tư bản phương tây.
Trong tiếng Anh, có một câu nói là: “Hãy coi chừng
những ước muốn của mình.”[28] Lý do (thường không nói đến) là bởi vì
“anh sẽ lĩnh đủ nó.”[29] Khi tôi ở Mátxcơva vào những năm 1970 và 1980,
tôi thấy rất nhiều trí thức đầu đàn của Liên Xô chán ghét hệ thống xã
hội chủ nghĩa mà họ đang sống và chỉ muốn được thấy nó bị thay thế bởi
một hình thức kiểu phương Tây cả về kinh tế và chính trị. Họ thường tỏ
ra rất ngưỡng mộ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, và họ thường không hiểu được
những khó khăn và thất bại của hệ thống Mỹ.
Bây giờ thì họ đã lĩnh đủ những gì họ mong đợi - Hệ
thống xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã sụp đổ và được thay thế bởi một dạng
thô sơ của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những hệ lụy đối với nghiên cứu khoa
học và giáo dục là hết sức tai hại. Nước Nga bây giờ không còn là nơi
mà khoa học, toán học và giáo dục bậc cao có tầm cỡ thế giới. Gần đây,
Math Reviews[30] có nhờ tôi đọc nhận xét một bài báo đăng bằng tiếng
Nga về mật mã (điều này rất hiếm xảy ra vì thời gian gần đây chẳng có
gì được đăng bằng tiếng Nga cả). Danh sách các tài liệu trích dẫn của
nó đều là các bài đã cũ từ 15 năm trước - một điều rất lạ so với một
ngành toán ứng dụng đang phát triển rất nhanh chóng - và “ý tưởng mới”
của tác giả đã được phát triển và công bố từ cuối những năm 1990. Trình
độ của tác giả giống như của một ai đó từ một nước Thế Giới Thứ Ba chậm
phát triển. Một đất nước mà trước kia từng là đối thủ cạnh tranh khoa
học của nước Mỹ thì ngày nay chỉ là một vũng nước đọng.
Nhiều năm trước Hoàng Tụy đã giải thích cho tôi rằng
khác với một vài nước khác (chắc là ông đang nghĩ chủ yếu đến Trung
Quốc), từ khi giành độc lập năm 1945, Việt Nam đã tránh được nhiều sự
đổi hướng đột ngột - những thay đổi đã gây nên rất nhiều gian khổ ở các
nơi khác trên thế giới. Người Việt Nam, theo quan sát của ông, thích
những sự thay đổi vừa phải và giải quyết những bất đồng một cách êm
thấm, sao cho không dẫn đến những sự đàn áp hay làm nhục đối phương.
Nếu như cái nhìn này về cách thực hiện cải cách ở Việt Nam vẫn còn
chính xác thì rất có thể nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao ở Việt
Nam mà vẫn không đoạn tuyệt với hệ thống xã hội chủ nghĩa, không sỉ
nhục những người được đào tạo tại Liên Xô các nước khối Đông Âu cũ, và
không giao phó tương lai của Việt Nam cho những người được gọi là
“chuyên gia” Mỹ.
Neal Koblitz
Khoa Toán, Đại học Washington, Seattle, USA
koblitz@math.washington.edu
(Nguồn Mạng giáo dục)